CHUYỆN THANH ĐIỂN TIÊN THIÊN KHÍ.
Mặc dù từ rất xa xưa, con người đã khám phá và cảm nhận lợi ích thực sự của Prana đối với các cơ thể sống và đã ứng dụng Prana trong việc nâng cao sức đề kháng, chữa bệnh, thúc đẩy tiến bộ tinh thần và tâm linh… nhưng phần lớn văn bản giáo khoa ghi chép ẩn dụ, một số thất truyền, còn sự ứng dụng Prana trong tu tập chỉ được truyền thừa. Thời đại chúng ta vẫn chưa có câu trả lời hoàn chỉnh về sự tồn tại của Prana và ý nghĩa của nó đối với thế giới. Có giả thuyết coi Prana là chất liệu siêu mịn với vai trò thiết yếu trong việc nuôi dưỡng và ổn định các ‘cơ thể hào quang’ – là cấu trúc không nhìn thấy bằng mắt thường mà dường như chi phối toàn bộ thân thể của mỗi người. Khoa học thực nghiệm chưa tìm ra bản chất đích thực của Prana là gì. Có thuyết coi Prana là một dạng đặc biệt của vật chất, vừa là sóng vừa là hạt và chứa đựng thông tin. Có người gọi Prana là “linh hồn nguyên tử”.
Theo thuật ngữ Hin-du giáo, Prana có nghĩa là năng lượng gốc mà tất cả các lực sống đều phát sinh từ đó. Một thuyết cổ phương Đông cho rằng, Prana có biểu hiện trí tuệ và là phần không thể tách rời của Tạo Hoá.
Mô tả của một số người có tri giác phát triển đều khẳng định mọi vật hữu tri và vô tri trên hành tinh luôn chìm ngập trong một bể năng lượng không hao mòn mà mắt thường không nhìn thấy, đó chính là Prana. Prana không phải chỉ có trong không gian mà còn chuyển vận trong các sinh loài. Sinh khí Prana trong thức ăn được hấp thụ ở lưỡi, nếu đau bệnh không ăn bình thường được mà phải truyền thì không hấp thụ được Prana. Thức ăn còn nhiễm Prana của người chế biến, đặc biệt là năng lượng phát sinh từ tâm thức người nấu. Từ đây có thể suy ra tầm quan trọng của món ăn gia đình do người thân nấu với tình thương yêu. Cần nhai thức ăn trong miệng để hấp thu tối đa Prana ở lưỡi chứ không nên xay nhuyễn đồ ăn để uống. Khi bạn nhai một miếng chuối hay xoài thì bạn hấp thu Prana nhiều hơn khi bạn xay sinh tố và uống nó, điều đó cũng đồng nghĩa với tiêu tốn thức ăn hơn.
Sinh khí Prana trong không khí được hấp thu ở niêm mạc mũi, bởi vậy cần chăm sóc trẻ em tránh bị ngạt mũi, phải thở bằng miệng sẽ không hấp thụ được Prana trong không khí. Hai lỗ mũi lại hấp thu Prana khác nhau, một bên hấp thu Prana và chuyển thành dương tính, một bên hấp thu Prana và chuyển thành âm tính, bởi vậy, cả hai lỗ mũi cần được thông suốt và sạch sẽ https://t.cn/A6OlgGlG Chăm sóc lỗ mũi là nhiệm vụ thường ngày của chư vị yogi.
Từ hàng ngàn năm nay, những người có khả năng chữa bệnh huyền bí và một số nhà nghiên cứu chuyên sâu trong lĩnh vực siêu hình đã tập trung chú ý đặc biệt đến năng lượng Prana. Hiện nay, lĩnh vực chữa bệnh không dùng thuốc đang nỗ lực thực nghiệm ứng dụng Prana dựa trên quan sát về sự tồn tại trường năng lượng vũ trụ mà nhờ tập luyện, con người có thể cảm nhận được một cách khá cụ thể.
Lưu lượng Prana trong cơ thể đảm bảo [một phần lớn] trạng thái khỏe mạnh của con người và được kiểm soát bởi nghiệp. Nhưng, trong cơ thể chúng ta không chỉ có Prana tiên thiên mà còn có năng lượng của ý thức do chúng ta tự tạo ra trong chu trình sống, nếu từ nhỏ con người có được sự giáo dục đúng đắn thì rất ích lợi cho sức khỏe, tiến hóa cá nhân và tiến bộ cộng đồng.
Theo kinh điển, có 9 dạng Prana [Naga, Kurma, Devadatta, Krikala, Apana, Dhananjaya, Udana, Samana, Vyana] lưu thông qua 72.000 Nadis. 8 loại sẽ phân rã sau khi ta dứt hơi thở, 1 loại tồn tại trong tro cốt và vẫn tác động thông tin riêng của nó vào trường năng lượng vũ trụ trong khoảng 1.000 đến 1.500 năm, sách cổ ghi rằng, phải tránh khai quật các ngôi mộ chưa được 1.500 năm. Một kinh nghiệm cổ xưa, hài cốt hỏa thiêu cần được thổ táng không nên quàn lộ thiên.
Trái tim quan trọng nhất, riêng trái tim được luân chuyển sinh lực từ 101 Nadis, mỗi kênh lại có 100 Nadis phụ thành 10.100 Nadis. Ở tầm mức kém vi tế nhất là thể chất, bảo vệ sức khỏe gồm 3 trọng tâm: tăng cường lưu lượng Prana, tịnh hóa năng lượng ý thức và chăm sóc thích hợp cho tim. Tôi sẽ giới thiệu dần từng khía cạnh, nhưng mọi kinh nghiệm chỉ để xem cho vui chứ không có ý nghĩa thực tế nếu nhiễm thói quen ăn thịt, khủng hoảng của sự bị giết là thông tin rất thô trược tràn ngập Nadis của người tiêu thụ thịt, ảnh hưởng không chỉ tới thể chất mà các thể vi tế khác.
Tranh cổ miêu tả sơ lược hệ thống Nadis.
Nguồn fb Cô Liên Hương
Mặc dù từ rất xa xưa, con người đã khám phá và cảm nhận lợi ích thực sự của Prana đối với các cơ thể sống và đã ứng dụng Prana trong việc nâng cao sức đề kháng, chữa bệnh, thúc đẩy tiến bộ tinh thần và tâm linh… nhưng phần lớn văn bản giáo khoa ghi chép ẩn dụ, một số thất truyền, còn sự ứng dụng Prana trong tu tập chỉ được truyền thừa. Thời đại chúng ta vẫn chưa có câu trả lời hoàn chỉnh về sự tồn tại của Prana và ý nghĩa của nó đối với thế giới. Có giả thuyết coi Prana là chất liệu siêu mịn với vai trò thiết yếu trong việc nuôi dưỡng và ổn định các ‘cơ thể hào quang’ – là cấu trúc không nhìn thấy bằng mắt thường mà dường như chi phối toàn bộ thân thể của mỗi người. Khoa học thực nghiệm chưa tìm ra bản chất đích thực của Prana là gì. Có thuyết coi Prana là một dạng đặc biệt của vật chất, vừa là sóng vừa là hạt và chứa đựng thông tin. Có người gọi Prana là “linh hồn nguyên tử”.
Theo thuật ngữ Hin-du giáo, Prana có nghĩa là năng lượng gốc mà tất cả các lực sống đều phát sinh từ đó. Một thuyết cổ phương Đông cho rằng, Prana có biểu hiện trí tuệ và là phần không thể tách rời của Tạo Hoá.
Mô tả của một số người có tri giác phát triển đều khẳng định mọi vật hữu tri và vô tri trên hành tinh luôn chìm ngập trong một bể năng lượng không hao mòn mà mắt thường không nhìn thấy, đó chính là Prana. Prana không phải chỉ có trong không gian mà còn chuyển vận trong các sinh loài. Sinh khí Prana trong thức ăn được hấp thụ ở lưỡi, nếu đau bệnh không ăn bình thường được mà phải truyền thì không hấp thụ được Prana. Thức ăn còn nhiễm Prana của người chế biến, đặc biệt là năng lượng phát sinh từ tâm thức người nấu. Từ đây có thể suy ra tầm quan trọng của món ăn gia đình do người thân nấu với tình thương yêu. Cần nhai thức ăn trong miệng để hấp thu tối đa Prana ở lưỡi chứ không nên xay nhuyễn đồ ăn để uống. Khi bạn nhai một miếng chuối hay xoài thì bạn hấp thu Prana nhiều hơn khi bạn xay sinh tố và uống nó, điều đó cũng đồng nghĩa với tiêu tốn thức ăn hơn.
Sinh khí Prana trong không khí được hấp thu ở niêm mạc mũi, bởi vậy cần chăm sóc trẻ em tránh bị ngạt mũi, phải thở bằng miệng sẽ không hấp thụ được Prana trong không khí. Hai lỗ mũi lại hấp thu Prana khác nhau, một bên hấp thu Prana và chuyển thành dương tính, một bên hấp thu Prana và chuyển thành âm tính, bởi vậy, cả hai lỗ mũi cần được thông suốt và sạch sẽ https://t.cn/A6OlgGlG Chăm sóc lỗ mũi là nhiệm vụ thường ngày của chư vị yogi.
Từ hàng ngàn năm nay, những người có khả năng chữa bệnh huyền bí và một số nhà nghiên cứu chuyên sâu trong lĩnh vực siêu hình đã tập trung chú ý đặc biệt đến năng lượng Prana. Hiện nay, lĩnh vực chữa bệnh không dùng thuốc đang nỗ lực thực nghiệm ứng dụng Prana dựa trên quan sát về sự tồn tại trường năng lượng vũ trụ mà nhờ tập luyện, con người có thể cảm nhận được một cách khá cụ thể.
Lưu lượng Prana trong cơ thể đảm bảo [một phần lớn] trạng thái khỏe mạnh của con người và được kiểm soát bởi nghiệp. Nhưng, trong cơ thể chúng ta không chỉ có Prana tiên thiên mà còn có năng lượng của ý thức do chúng ta tự tạo ra trong chu trình sống, nếu từ nhỏ con người có được sự giáo dục đúng đắn thì rất ích lợi cho sức khỏe, tiến hóa cá nhân và tiến bộ cộng đồng.
Theo kinh điển, có 9 dạng Prana [Naga, Kurma, Devadatta, Krikala, Apana, Dhananjaya, Udana, Samana, Vyana] lưu thông qua 72.000 Nadis. 8 loại sẽ phân rã sau khi ta dứt hơi thở, 1 loại tồn tại trong tro cốt và vẫn tác động thông tin riêng của nó vào trường năng lượng vũ trụ trong khoảng 1.000 đến 1.500 năm, sách cổ ghi rằng, phải tránh khai quật các ngôi mộ chưa được 1.500 năm. Một kinh nghiệm cổ xưa, hài cốt hỏa thiêu cần được thổ táng không nên quàn lộ thiên.
Trái tim quan trọng nhất, riêng trái tim được luân chuyển sinh lực từ 101 Nadis, mỗi kênh lại có 100 Nadis phụ thành 10.100 Nadis. Ở tầm mức kém vi tế nhất là thể chất, bảo vệ sức khỏe gồm 3 trọng tâm: tăng cường lưu lượng Prana, tịnh hóa năng lượng ý thức và chăm sóc thích hợp cho tim. Tôi sẽ giới thiệu dần từng khía cạnh, nhưng mọi kinh nghiệm chỉ để xem cho vui chứ không có ý nghĩa thực tế nếu nhiễm thói quen ăn thịt, khủng hoảng của sự bị giết là thông tin rất thô trược tràn ngập Nadis của người tiêu thụ thịt, ảnh hưởng không chỉ tới thể chất mà các thể vi tế khác.
Tranh cổ miêu tả sơ lược hệ thống Nadis.
Nguồn fb Cô Liên Hương
CHÍN GIAI ĐOẠN TRONG THIỀN
Các bạn đã xem một chuyên đề phim giải thích vì sao tim “quan trọng” hơn não. Bộ phim cũng đã cho biết năng lượng của tim mạnh gấp hàng ngàn lần trí não. Các bạn cũng đã biết rằng tim có “trí tuệ” riêng. Tim có được trạng thái đồng điệu - hài hòa - gắn kết lại thông qua hơi thở, và thiền, đơn giản là nhận biết hơi thở.
Cái gọi là nền giáo dục của nhân loại không dạy về điều căn bản này, bởi vậy chúng ta phải tự giáo dục mình. Bây giờ chúng ta thử thực hành một phương pháp của Phật giáo Mật tông – 9 GIAI ĐOẠN – “rèn luyện từ một tâm hoang dã bận rộn tới một tâm xả bỏ hoàn thiện” – đó là cách nói của các vị Thầy, bạn có thể hiểu rất đơn giản là nó: làm sạch + tiếp năng lượng + chữa lành + khai triển mọi tiềm năng mà bạn đã có qua nhiều kiếp sống…
Kinh nghiệm truyền thừa của những thiền sư làm việc với tâm thức, triển khai một quá trình gồm 9 giai đoạn để tâm có thể trở về với sự ổn định, sáng tỏ và sức mạnh nguyên thuỷ. Những hướng dẫn này cụ thể và vô cùng hữu ích. Đạo sư Sakyong Mipham Rinpoche trình bày bằng ngôn ngữ hiện đại, một bản đồ của quá trình thiền định 9 giai đoạn.
A/ Bốn giai đoạn đầu tiên: đặt tâm, đặt tâm liên tục, đặt tâm lặp lại và đặt tâm chặt chẽ ta tạo lập và phát triển sự ổn định.
B/ Giai đoạn năm và sáu: thuần dưỡng & an định ta phát triển sự sáng tỏ.
C/ Ba giai đoạn cuối cùng: an định rốt ráo, nhất tâm & tâm xả bỏ ta xây dựng sức mạnh.
-----------------------------------------
A/ BỐN GIAI ĐOẠN ĐẦU TIÊN:
1/ ĐẶT TÂM:
- Việc đặt sự chú ý vào hơi thở là điều đầu tiên chúng ta làm trong thiền.
- Việc đặt tâm giống như khi chúng ta trèo lên một con ngựa: ta đặt chân mình vào bàn đạp và rồi nâng cơ thể lên yên, đặt mình vào đúng vị trí.
- Thời điểm của việc đặt tâm bắt đầu khi chúng ta tách tâm của mình khỏi những sự kiện, vấn đề, suy nghĩ và cảm xúc… Chúng ta neo cái tâm bận bịu đó vào nhịp thở. Mặc dù chúng ta làm việc với ý thức – một thứ vốn phi vật chất, nhưng việc đặt tâm này vẫn có cảm giác rất thực tế. Nó rõ ràng như thể đặt một tảng đá lên trên một chiếc lá.
- Để đặt tâm thành công, chúng ta phải xác quyết rằng, mình sẽ buông bỏ các suy nghĩ và cảm xúc: "Bây giờ tôi đặt tâm vào hơi thở."
- Điều gì xảy ra trong thời điểm bắt đầu đó? Những bám chấp của chúng ta sẽ bị nhổ bỏ. Nếu chúng ta cố gắng thực hiện điều này, sự phóng tâm của chúng ta sẽ giảm đi đáng kể. Đồng thời, bằng cách đặt tâm vào hơi thở, chúng ta sẽ tập hợp lại được cái tâm đang lang thang khắp nơi.
- Đối với người mới bắt đầu thiền, giai đoạn đầu tiên là thời gian chúng ta học cách làm thế nào để cân bằng giữa việc tập trung vào hơi thở + việc giữ nguyên tư thế. Đặt tâm luôn luôn là bước đầu tiên. Đó là thời điểm vào đầu mỗi buổi tập, khi chúng ta xác nhận rằng mình bắt đầu hành thiền. Đó là giai đoạn quan trọng nhất vì nó sẽ thiết lập thái độ của chúng ta đối với phần còn lại của buổi tập. Giây phút đặt tâm này sẽ mang tới cho việc thiền một khởi đầu tinh khiết và mạnh mẽ. Nếu chúng ta bắt đầu một cách mơ hồ hay không rõ ràng, sau đó việc thiền định của chúng ta cũng sẽ mơ hồ.
- Học đặt tâm – một hành động nhỏ nhưng lại là một trong những điều dũng cảm nhất mà bạn có thể làm, bạn có thể tự hào về chính mình, bạn đã vượt qua được sự lười biếng của một tâm phóng dật.
- Bạn đã nhớ các hướng dẫn. Bạn có thể vui vẻ quay trở lại với hơi thở. Đừng lo lắng rằng bạn sẽ phải làm điều đó một lần nữa – thực tế, bạn sẽ phải làm điều đó hàng ngàn lần. Đó là lý do tại sao thiền được gọi là thực hành.
- Mỗi khi bạn đặt tâm mình vào hơi thở, bạn đang tiến lên phía trước. Chỉ cần buông bỏ một suy nghĩ, bạn đã giải thoát bản thân khỏi những cảm xúc tiêu cực. Bạn phải lặp lại điều đó nhiều lần. Sự thay đổi sẽ xuất hiện theo từng hơi thở, từng suy nghĩ. Mỗi khi bạn quay trở lại với hơi thở, là bạn cũng đang tiến xa thêm một bước ra khỏi thói phóng tâm cùng nỗi sợ hãi và tiến lên thêm một bước trên con đường giác ngộ, bắt đầu phát triển tâm linh cho chính mình.
- Nếu bạn không nhạy bén trong việc nhận ra và giải phóng các suy nghĩ, bạn không thực sự hành thiền mà chỉ đang làm hằn sâu thêm sự buông thả, các suy nghĩ lan man sẽ mạnh lên và bạn chỉ là đang suy nghĩ trong lúc ngồi yên mà thôi.
- Nhận ra, thừa nhận và giải phóng một suy nghĩ cũng giống như leo lên đến đỉnh núi. Nó xứng đáng cho ta ăn mừng vì đã bỏ lại phía sau những ảo tưởng có thể cướp đi của chúng ta cả cuộc đời này nếu chúng ta không làm việc đúng cách với chúng.
- Tập hợp sự chú ý càng tốt bao nhiêu, tâm sẽ càng mạnh hơn bấy nhiêu, các kinh nghiệm cũng mạnh hơn và kết quả đạt được càng lớn hơn.
- Thành công đầu tiên, khi ta có thể giữ được sự tập trung vào hơi thở trong khoảng 21 chu kỳ mà không có sự phân tâm nào lớn.
Chúc bạn tập ĐẶT TÂM thành công.
[Bạn nào đếm được 21 nhịp thở mà không nghĩ sang chuyện khác thì mở tiệc ăn mừng nhé.]
Tranh cổ minh họa 9 giai đoạn trong thiền.
Nguồn FB Cô Liên Hương
Các bạn đã xem một chuyên đề phim giải thích vì sao tim “quan trọng” hơn não. Bộ phim cũng đã cho biết năng lượng của tim mạnh gấp hàng ngàn lần trí não. Các bạn cũng đã biết rằng tim có “trí tuệ” riêng. Tim có được trạng thái đồng điệu - hài hòa - gắn kết lại thông qua hơi thở, và thiền, đơn giản là nhận biết hơi thở.
Cái gọi là nền giáo dục của nhân loại không dạy về điều căn bản này, bởi vậy chúng ta phải tự giáo dục mình. Bây giờ chúng ta thử thực hành một phương pháp của Phật giáo Mật tông – 9 GIAI ĐOẠN – “rèn luyện từ một tâm hoang dã bận rộn tới một tâm xả bỏ hoàn thiện” – đó là cách nói của các vị Thầy, bạn có thể hiểu rất đơn giản là nó: làm sạch + tiếp năng lượng + chữa lành + khai triển mọi tiềm năng mà bạn đã có qua nhiều kiếp sống…
Kinh nghiệm truyền thừa của những thiền sư làm việc với tâm thức, triển khai một quá trình gồm 9 giai đoạn để tâm có thể trở về với sự ổn định, sáng tỏ và sức mạnh nguyên thuỷ. Những hướng dẫn này cụ thể và vô cùng hữu ích. Đạo sư Sakyong Mipham Rinpoche trình bày bằng ngôn ngữ hiện đại, một bản đồ của quá trình thiền định 9 giai đoạn.
A/ Bốn giai đoạn đầu tiên: đặt tâm, đặt tâm liên tục, đặt tâm lặp lại và đặt tâm chặt chẽ ta tạo lập và phát triển sự ổn định.
B/ Giai đoạn năm và sáu: thuần dưỡng & an định ta phát triển sự sáng tỏ.
C/ Ba giai đoạn cuối cùng: an định rốt ráo, nhất tâm & tâm xả bỏ ta xây dựng sức mạnh.
-----------------------------------------
A/ BỐN GIAI ĐOẠN ĐẦU TIÊN:
1/ ĐẶT TÂM:
- Việc đặt sự chú ý vào hơi thở là điều đầu tiên chúng ta làm trong thiền.
- Việc đặt tâm giống như khi chúng ta trèo lên một con ngựa: ta đặt chân mình vào bàn đạp và rồi nâng cơ thể lên yên, đặt mình vào đúng vị trí.
- Thời điểm của việc đặt tâm bắt đầu khi chúng ta tách tâm của mình khỏi những sự kiện, vấn đề, suy nghĩ và cảm xúc… Chúng ta neo cái tâm bận bịu đó vào nhịp thở. Mặc dù chúng ta làm việc với ý thức – một thứ vốn phi vật chất, nhưng việc đặt tâm này vẫn có cảm giác rất thực tế. Nó rõ ràng như thể đặt một tảng đá lên trên một chiếc lá.
- Để đặt tâm thành công, chúng ta phải xác quyết rằng, mình sẽ buông bỏ các suy nghĩ và cảm xúc: "Bây giờ tôi đặt tâm vào hơi thở."
- Điều gì xảy ra trong thời điểm bắt đầu đó? Những bám chấp của chúng ta sẽ bị nhổ bỏ. Nếu chúng ta cố gắng thực hiện điều này, sự phóng tâm của chúng ta sẽ giảm đi đáng kể. Đồng thời, bằng cách đặt tâm vào hơi thở, chúng ta sẽ tập hợp lại được cái tâm đang lang thang khắp nơi.
- Đối với người mới bắt đầu thiền, giai đoạn đầu tiên là thời gian chúng ta học cách làm thế nào để cân bằng giữa việc tập trung vào hơi thở + việc giữ nguyên tư thế. Đặt tâm luôn luôn là bước đầu tiên. Đó là thời điểm vào đầu mỗi buổi tập, khi chúng ta xác nhận rằng mình bắt đầu hành thiền. Đó là giai đoạn quan trọng nhất vì nó sẽ thiết lập thái độ của chúng ta đối với phần còn lại của buổi tập. Giây phút đặt tâm này sẽ mang tới cho việc thiền một khởi đầu tinh khiết và mạnh mẽ. Nếu chúng ta bắt đầu một cách mơ hồ hay không rõ ràng, sau đó việc thiền định của chúng ta cũng sẽ mơ hồ.
- Học đặt tâm – một hành động nhỏ nhưng lại là một trong những điều dũng cảm nhất mà bạn có thể làm, bạn có thể tự hào về chính mình, bạn đã vượt qua được sự lười biếng của một tâm phóng dật.
- Bạn đã nhớ các hướng dẫn. Bạn có thể vui vẻ quay trở lại với hơi thở. Đừng lo lắng rằng bạn sẽ phải làm điều đó một lần nữa – thực tế, bạn sẽ phải làm điều đó hàng ngàn lần. Đó là lý do tại sao thiền được gọi là thực hành.
- Mỗi khi bạn đặt tâm mình vào hơi thở, bạn đang tiến lên phía trước. Chỉ cần buông bỏ một suy nghĩ, bạn đã giải thoát bản thân khỏi những cảm xúc tiêu cực. Bạn phải lặp lại điều đó nhiều lần. Sự thay đổi sẽ xuất hiện theo từng hơi thở, từng suy nghĩ. Mỗi khi bạn quay trở lại với hơi thở, là bạn cũng đang tiến xa thêm một bước ra khỏi thói phóng tâm cùng nỗi sợ hãi và tiến lên thêm một bước trên con đường giác ngộ, bắt đầu phát triển tâm linh cho chính mình.
- Nếu bạn không nhạy bén trong việc nhận ra và giải phóng các suy nghĩ, bạn không thực sự hành thiền mà chỉ đang làm hằn sâu thêm sự buông thả, các suy nghĩ lan man sẽ mạnh lên và bạn chỉ là đang suy nghĩ trong lúc ngồi yên mà thôi.
- Nhận ra, thừa nhận và giải phóng một suy nghĩ cũng giống như leo lên đến đỉnh núi. Nó xứng đáng cho ta ăn mừng vì đã bỏ lại phía sau những ảo tưởng có thể cướp đi của chúng ta cả cuộc đời này nếu chúng ta không làm việc đúng cách với chúng.
- Tập hợp sự chú ý càng tốt bao nhiêu, tâm sẽ càng mạnh hơn bấy nhiêu, các kinh nghiệm cũng mạnh hơn và kết quả đạt được càng lớn hơn.
- Thành công đầu tiên, khi ta có thể giữ được sự tập trung vào hơi thở trong khoảng 21 chu kỳ mà không có sự phân tâm nào lớn.
Chúc bạn tập ĐẶT TÂM thành công.
[Bạn nào đếm được 21 nhịp thở mà không nghĩ sang chuyện khác thì mở tiệc ăn mừng nhé.]
Tranh cổ minh họa 9 giai đoạn trong thiền.
Nguồn FB Cô Liên Hương
NHỮNG CĂN BẢN ĐỂ CÓ THỂ TỰ TẬP THIỀN [Phần II]
CHỌN LOẠI THIỀN NÀO?
- Có nhiều loại thiền khác nhau, chúng tôi giới thiệu cách đơn giản nhất mà rất hiệu quả: quán hơi thở [yoga gọi là Anapanasati] Hán dịch là An ban thủ ý, Anh ngữ là Meditation of Breathing. - Pháp quán này được đức Phật dạy trong kinh Tứ Niệm Xứ [Satipatthana Sutta] và được nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần: “Đây là con đường độc nhất dẫn tới thanh tịnh cho chúng sinh, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng đắc Niết bàn.”
- Quán hơi thở áp dụng được cho tất cả mọi người, cả người khỏe và yếu, cao niên và trẻ, không cần dụng công đặc biệt bởi nó gắn với hoạt động sống căn bản – thở.
- Khi vào thực hành, chúng ta có thể tập tư thế riêng; tập đặt ý thức vào hơi thở riêng; sau đó phối hợp tư thế và chánh niệm hơi thở. Khi thuần thục sẽ kết hợp tư thế + tập trung. Sau đó có thể kết hợp tập thêm một phép quán khác tùy theo cơ địa hay bệnh tật.
- Quán hơi thở có vài kiểu, ta chọn TÙY TỨC QUÁN
- "Tùy" là theo, "tức" là hơi thở. Tùy tức quán là tự theo dõi hơi thở, 2 thì Hít vào và Thở ra đều nhận biết.
- Trong khi theo dõi hơi thở, bạn sẽ nhận ra mạng sống trong hơi thở, thở ra mà không hít vào thì mạng sống không còn tồn tại. Hơi thở đã vô thường thì mạng sống cũng vô thường. Có rất nhiều phương pháp khác nhau và Pháp Thở là căn bản, là bài học vỡ lòng của các pháp thiền tập. Thở là tâm điểm các hoạt động của cơ thể chúng ta. Nội tâm và hơi thở của chúng ta là một: khi chúng ta tức bực, hơi thở trở nên hổn hển; khi tâm an lạc, hơi thở trở nên điều hoà, dễ chịu, vì thế cần điều hoà hơi thở một cách tự nhiên qua lỗ mũi. Về sau dễ dàng quán hơi thở nơi đan điền.
- Khi vào Thiền, hít sâu, thong thả, bằng mũi, cho “đầy bụng”, rồi thở ra bằng miệng, nhẹ nhàng 3 lần. Từ đây về sau chỉ hít thở bằng mũi đều đều, nhè nhẹ, không cố gắng cho đầy bụng, vừa thở ra hít vào vừa chú tâm theo dõi chính hơi thở đó.
- Lưu ý để tránh nhầm lẫn: chúng ta đang tập TÙY TỨC QUÁN chúng ta chỉ chú ý theo hơi thở vào – ra, chúng ta không đếm số, đếm là phương pháp SỔ TỨC QUÁN.
CÁC KIỂU NGỒI KHÁC NHAU
1 - SUKHASANA
Tư thế Miến điện [Burmese position] khoa yoga gọi là Sukhasana: hai chân xếp chéo nhau đặt đều trên đệm nhưng không kết vào nhau. Đây là tư thế rất dễ dàng. Rất nhiều người Việt ngồi ăn trên chiếu trong tư thế này.
2 - ARDHA PADMASANA
Tư thế Bán Già [Half Lotus position] khoa yoga gọi là Ardha Padmasana hơi khó hơn Sukhasana một chút vì 1 bàn chân ngửa và gác sâu lên đùi bên kia.
3 - SVASTIKASANA
Tư thế Kiết Già [Full Lotus position] khoa yoga gọi là Padmasana hay Svastikasana, biểu tượng của khả năng sinh sôi và sự sáng tạo, thực nghiệm khoa học cho thấy khi một người ngồi trong tư thế kiết già, sóng não tức khắc chuyển từ nhịp Beta nhanh dao động sang nhịp Alpha trầm lặng và chậm hơn, trong Svastikasana dễ đi vào tâm trí yên bình, ít bị kích thích do những khuấy động bên ngoài.
4 - VAJRASANA
Tư thế quỳ Nhật Bản [Seiza position] khoa yoga gọi là Vajrasana. Người Âu hay tập thế này.
5 - SIDDHASANA
Tư thế Tôn sư, khoa yoga gọi là Siddhasana có nghĩa là tĩnh tọa của bậc tôn sư. Siddhas nghĩa là “bậc yogi hoàn toàn”, dùng thế này vào Định phải là người tuyệt dục. Siddhasan không buộc tréo chân như kiết già, chân mặt xếp trên chân trái mở hông và kéo thẳng cột sống.
Trong quyển “The Completex Illustrated Book of Yoga”, 84 tư thế được Swami Vishnu-devananda biểu diễn và chụp hình làm mẫu nhưng tập thiền thì chỉ có 5 tư thế nêu trên có thể áp dụng.
6 - Tư thế ngồi trên ghế, 2 bàn chân dẫm trên sàn [Chair position] tư thế này không có trong khoa yoga, nó dành cho người Âu-Mỹ, người cao tuổi, người có bệnh khớp bắt đầu tập thiền.
Khi mới tập, chúng ta không đi thiền được bởi chưa có phản xạ định tâm.
Ảnh của: The Unitarian Society of Ridgewood
Còn tiếp phần III:
KỸ THUẬT TẮM SƠ TRƯỚC KHI THIỀN
Y PHỤC, MÙI HƯƠNG
MẮT
XẢ THIỀN
Nguồn FB Cô Liên Hương
CHỌN LOẠI THIỀN NÀO?
- Có nhiều loại thiền khác nhau, chúng tôi giới thiệu cách đơn giản nhất mà rất hiệu quả: quán hơi thở [yoga gọi là Anapanasati] Hán dịch là An ban thủ ý, Anh ngữ là Meditation of Breathing. - Pháp quán này được đức Phật dạy trong kinh Tứ Niệm Xứ [Satipatthana Sutta] và được nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần: “Đây là con đường độc nhất dẫn tới thanh tịnh cho chúng sinh, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng đắc Niết bàn.”
- Quán hơi thở áp dụng được cho tất cả mọi người, cả người khỏe và yếu, cao niên và trẻ, không cần dụng công đặc biệt bởi nó gắn với hoạt động sống căn bản – thở.
- Khi vào thực hành, chúng ta có thể tập tư thế riêng; tập đặt ý thức vào hơi thở riêng; sau đó phối hợp tư thế và chánh niệm hơi thở. Khi thuần thục sẽ kết hợp tư thế + tập trung. Sau đó có thể kết hợp tập thêm một phép quán khác tùy theo cơ địa hay bệnh tật.
- Quán hơi thở có vài kiểu, ta chọn TÙY TỨC QUÁN
- "Tùy" là theo, "tức" là hơi thở. Tùy tức quán là tự theo dõi hơi thở, 2 thì Hít vào và Thở ra đều nhận biết.
- Trong khi theo dõi hơi thở, bạn sẽ nhận ra mạng sống trong hơi thở, thở ra mà không hít vào thì mạng sống không còn tồn tại. Hơi thở đã vô thường thì mạng sống cũng vô thường. Có rất nhiều phương pháp khác nhau và Pháp Thở là căn bản, là bài học vỡ lòng của các pháp thiền tập. Thở là tâm điểm các hoạt động của cơ thể chúng ta. Nội tâm và hơi thở của chúng ta là một: khi chúng ta tức bực, hơi thở trở nên hổn hển; khi tâm an lạc, hơi thở trở nên điều hoà, dễ chịu, vì thế cần điều hoà hơi thở một cách tự nhiên qua lỗ mũi. Về sau dễ dàng quán hơi thở nơi đan điền.
- Khi vào Thiền, hít sâu, thong thả, bằng mũi, cho “đầy bụng”, rồi thở ra bằng miệng, nhẹ nhàng 3 lần. Từ đây về sau chỉ hít thở bằng mũi đều đều, nhè nhẹ, không cố gắng cho đầy bụng, vừa thở ra hít vào vừa chú tâm theo dõi chính hơi thở đó.
- Lưu ý để tránh nhầm lẫn: chúng ta đang tập TÙY TỨC QUÁN chúng ta chỉ chú ý theo hơi thở vào – ra, chúng ta không đếm số, đếm là phương pháp SỔ TỨC QUÁN.
CÁC KIỂU NGỒI KHÁC NHAU
1 - SUKHASANA
Tư thế Miến điện [Burmese position] khoa yoga gọi là Sukhasana: hai chân xếp chéo nhau đặt đều trên đệm nhưng không kết vào nhau. Đây là tư thế rất dễ dàng. Rất nhiều người Việt ngồi ăn trên chiếu trong tư thế này.
2 - ARDHA PADMASANA
Tư thế Bán Già [Half Lotus position] khoa yoga gọi là Ardha Padmasana hơi khó hơn Sukhasana một chút vì 1 bàn chân ngửa và gác sâu lên đùi bên kia.
3 - SVASTIKASANA
Tư thế Kiết Già [Full Lotus position] khoa yoga gọi là Padmasana hay Svastikasana, biểu tượng của khả năng sinh sôi và sự sáng tạo, thực nghiệm khoa học cho thấy khi một người ngồi trong tư thế kiết già, sóng não tức khắc chuyển từ nhịp Beta nhanh dao động sang nhịp Alpha trầm lặng và chậm hơn, trong Svastikasana dễ đi vào tâm trí yên bình, ít bị kích thích do những khuấy động bên ngoài.
4 - VAJRASANA
Tư thế quỳ Nhật Bản [Seiza position] khoa yoga gọi là Vajrasana. Người Âu hay tập thế này.
5 - SIDDHASANA
Tư thế Tôn sư, khoa yoga gọi là Siddhasana có nghĩa là tĩnh tọa của bậc tôn sư. Siddhas nghĩa là “bậc yogi hoàn toàn”, dùng thế này vào Định phải là người tuyệt dục. Siddhasan không buộc tréo chân như kiết già, chân mặt xếp trên chân trái mở hông và kéo thẳng cột sống.
Trong quyển “The Completex Illustrated Book of Yoga”, 84 tư thế được Swami Vishnu-devananda biểu diễn và chụp hình làm mẫu nhưng tập thiền thì chỉ có 5 tư thế nêu trên có thể áp dụng.
6 - Tư thế ngồi trên ghế, 2 bàn chân dẫm trên sàn [Chair position] tư thế này không có trong khoa yoga, nó dành cho người Âu-Mỹ, người cao tuổi, người có bệnh khớp bắt đầu tập thiền.
Khi mới tập, chúng ta không đi thiền được bởi chưa có phản xạ định tâm.
Ảnh của: The Unitarian Society of Ridgewood
Còn tiếp phần III:
KỸ THUẬT TẮM SƠ TRƯỚC KHI THIỀN
Y PHỤC, MÙI HƯƠNG
MẮT
XẢ THIỀN
Nguồn FB Cô Liên Hương
✋热门推荐