Đất Nung - Lien Huong Lena
Dụng cụ bếp đất nung – theo khảo cổ học – đã được loài người kinh nghiệm từ nền văn minh Indus Valley tây bắc Nam Á 3.300 trước công nguyên và văn minh Harappan cổ đại 2.800 TCN, nhưng chắc chắn là trước đó nữa, ở những nền văn minh khác. Ngày nay, đồ đất nung vẫn là hứng thú của những người sành sỏi nhất, quý trọng thiên nhiên, tâm linh phát triển.
Về siêu hình, thông âm-dương là lợi thế vô địch của đồ đất nung, đặc tính này làm cho thức ăn đựng trong nồi, hộp, âu, chum, vại đất nung lâu hỏng, giá đỗ ủ trong nồi đất nung thơm hơn, sữa chua nuôi trong hũ đất nung ngon hơn, cây trồng trong chậu đất nung có bộ rễ phát triển khoẻ hơn.
Thức ăn nấu trong nồi đất ngon hơn, giá trị dinh dưỡng của thực phẩm được bảo toàn hơn các loại vật liệu khác, vi lượng khoáng chất kali, lưu huỳnh… trong đất được chuyển vào thực phẩm.
Đất sét gia nhiệt trở nên cứng nhưng vẫn giữ được tính thổ chứ không bị biến tính kim, vẫn cách nhiệt, cách điện và thông âm-dương. Nhà dùng gạch nung mát hơn, cách âm tốt, không cháy.
Đồ đất nung rất dễ làm sạch bằng nước ấm với khăn vải, xơ mướp, chổi tre mềm. Quá nhiều chất béo thì dùng bột hạt hoa trà, cám gạo.
Đồ đất nung thân thiện với môi trường hơn, quá trình sản xuất không thêm phụ gia hoá chất độc hại, không tạo khí khi phân hủy, đồ vỡ có thể tái sử dụng.
Nấu bằng đồ đất là một cách để rèn tính kiên nhẫn vì phải rất chú ý đến nhiệt, không được tăng nhiệt để nấu nhanh vì như vậy sẽ làm nứt nồi.
Đồ đất nung có thể tráng men để tăng độ nhẵn, giảm tính thấm nước hoặc đơn giản là làm đẹp.
Nồi đất nung lâu ngày không dùng thì cần rửa thật sạch, ngâm trong nước pha dấm hoặc pha muối nở baking soda rồi thấm khô, phơi nắng để tránh bị nấm mốc. Việc phơi nắng nồi đất nung vừa có tác dụng khử khuẩn, chống nấm mốc vừa có tác dụng tích Thái Dương khí cho nồi. Tôi luôn cho một nắm trà khô vào nồi rồi mới cất.
Phải chọn mua nồi đất nung của các hãng uy tín trăm năm. Tôi sẽ lần lượt giới thiệu trong album “Đất nung - Mê nồi đất vĩnh viễn!”.
Dụng cụ bếp đất nung – theo khảo cổ học – đã được loài người kinh nghiệm từ nền văn minh Indus Valley tây bắc Nam Á 3.300 trước công nguyên và văn minh Harappan cổ đại 2.800 TCN, nhưng chắc chắn là trước đó nữa, ở những nền văn minh khác. Ngày nay, đồ đất nung vẫn là hứng thú của những người sành sỏi nhất, quý trọng thiên nhiên, tâm linh phát triển.
Về siêu hình, thông âm-dương là lợi thế vô địch của đồ đất nung, đặc tính này làm cho thức ăn đựng trong nồi, hộp, âu, chum, vại đất nung lâu hỏng, giá đỗ ủ trong nồi đất nung thơm hơn, sữa chua nuôi trong hũ đất nung ngon hơn, cây trồng trong chậu đất nung có bộ rễ phát triển khoẻ hơn.
Thức ăn nấu trong nồi đất ngon hơn, giá trị dinh dưỡng của thực phẩm được bảo toàn hơn các loại vật liệu khác, vi lượng khoáng chất kali, lưu huỳnh… trong đất được chuyển vào thực phẩm.
Đất sét gia nhiệt trở nên cứng nhưng vẫn giữ được tính thổ chứ không bị biến tính kim, vẫn cách nhiệt, cách điện và thông âm-dương. Nhà dùng gạch nung mát hơn, cách âm tốt, không cháy.
Đồ đất nung rất dễ làm sạch bằng nước ấm với khăn vải, xơ mướp, chổi tre mềm. Quá nhiều chất béo thì dùng bột hạt hoa trà, cám gạo.
Đồ đất nung thân thiện với môi trường hơn, quá trình sản xuất không thêm phụ gia hoá chất độc hại, không tạo khí khi phân hủy, đồ vỡ có thể tái sử dụng.
Nấu bằng đồ đất là một cách để rèn tính kiên nhẫn vì phải rất chú ý đến nhiệt, không được tăng nhiệt để nấu nhanh vì như vậy sẽ làm nứt nồi.
Đồ đất nung có thể tráng men để tăng độ nhẵn, giảm tính thấm nước hoặc đơn giản là làm đẹp.
Nồi đất nung lâu ngày không dùng thì cần rửa thật sạch, ngâm trong nước pha dấm hoặc pha muối nở baking soda rồi thấm khô, phơi nắng để tránh bị nấm mốc. Việc phơi nắng nồi đất nung vừa có tác dụng khử khuẩn, chống nấm mốc vừa có tác dụng tích Thái Dương khí cho nồi. Tôi luôn cho một nắm trà khô vào nồi rồi mới cất.
Phải chọn mua nồi đất nung của các hãng uy tín trăm năm. Tôi sẽ lần lượt giới thiệu trong album “Đất nung - Mê nồi đất vĩnh viễn!”.
SỰ TỬ – đây là phần thứ 2 để hiểu biết về chu trình cận tử và chuyển sinh. Tôi tóm tắt bản dịch từ tiếng Pháp của Thầy tôi.
Con người cấu tạo từ nhiều Thể lồng vào nhau nên không có cái chết đồng thời mà từng Thể chết cách riêng. Các chất cấu tạo nên các Thể sẽ phân rã ở cõi giới tương ứng với rung động của nó, hoàn trả về vũ trụ. Mỗi thể hư hoại có Hạt Lưu Tính được từ trường Trame de Vie bảo tồn để chuyển sinh.
Trong cái chết bình thường, vào giai đoạn cận tử, sinh lực Prana từ từ thu rút về tim rồi theo kênh Sushumna thứ cấp [Sushumna secondaire], không phải kênh thẳng mà hai kênh xoáy, nhập vào não thất thứ ba [3 è Venticute - xem ảnh comment], rồi vào điểm giữa của đường khớp đỉnh sọ [vị trí luân xa 7 hay huyệt Bách Hội] rời khỏi thể Xác. Tây y thì coi đây là chết, nhưng sự thực đây mới chỉ là bắt đầu quy trình chết.
Bạn giở lại phần về thể Vía trong bài 1: lúc chúng ta ngủ, thể Vía có thể ra khỏi thể Xác và thể Phách, để lại hai thể đó trên giường [khi đó Phách vẫn cấp dưỡng Prana cho Xác]. Khi chết không giống lúc ngủ, Vía ra khỏi thể Xác nhưng nó ‘quấn theo’ thể Phách, để lại thể Xác không còn được cấp dưỡng sinh khí Prana.
Khi thể Phách vừa ra khỏi thể Xác, có thể thấy nó giống một đám sương mù màu tím hoặc trắng xanh xám giống hình hài người, nhiều người chụp được và lầm tưởng là Linh Hồn. Khi Prana không còn trong thể Xác thì liên kết tế bào bắt đầu mất đi, nhưng sự sống nội môi của bản thân mỗi tế bào riêng rẽ vẫn tiếp tục trong một khoảng thời gian ngắn nữa do tế bào dự trữ được sinh khí Prana ngay trong nhân tế bào.
Khi thể Phách vừa rời bỏ Xác thì nó chưa phân rã hết mà thường trôi nổi bên trên tử thi, dân gian gọi là ‘hồn ma bóng quế’, có thể xuất hiện trước mặt những người có liên hệ mật thiết dưới dạng một hình lờ mờ. Trong giai đoạn này, người chết vẫn còn có ý thức một cách lơ mơ và nói mà người sống không nghe được. Nếu quá trình chết tự nhiên không bị xáo trộn bởi sự phiền não, thác loạn, đau đớn thì trạng thái tâm thức là lâng lâng yên bình. Trong thời gian Vía và Phách rút ra khỏi Xác toàn thể kiếp sống đã qua được duyệt lại như một cuốn phim. Có một số trường hợp, tưởng chết mà không chết, trong hôn mê, toàn thể kiếp sống đã qua cũng được duyệt lại như một cuốn phim mà sau khi hồi tỉnh bệnh nhân có thể kể lại. Lúc này, Phách vẫn còn kết nối lần cuối với Xác bằng một tuyến từ điện giống như sợi tóc mảnh mai sáng lấp lánh. Khi Tuyến Từ Điện này đứt mới thực sự hoàn tất cái chết của thể Xác – đây là CÁI CHẾT THỨ I.
Kế đến, chậm hơn sẽ là sự phân rã từ từ của 4 chất Dĩ Thái Hồng Trần đã tạo nên thể Phách – đây là CÁI CHẾT THỨ II. 4 chất Dĩ Thái Hồng Trần tan rã nhưng Nguyên Tử Trường Tồn của Phách, còn gọi là Hạt Lưu Tính [Atome physique permanent] chứa mật mã nghiệp vẫn được giữ gìn trong trường thông tin vũ trụ để kiến tạo chu kỳ mới theo đúng nghiệp lực, chu kỳ mới có thể tiến hóa hoặc thoái hóa tùy nghiệp. Atome physique permanent có một từ trường bao phủ không có gì thâm nhập được. Sự bảo tồn Atome physique permanent sẽ đề cập ở bài sau.
Kế đến, thể Vía tan rã dần – đây là CÁI CHẾT THỨ III. 7 chất Thanh Khí Trung Giới [nhà Phật gọi là Tịnh Quang] phân rã nhưng Nguyên Tử Trường Tồn của Vía [Atome astral permanent] chứa thông tin nghiệp được giữ gìn trong trường thông tin vũ trụ để kiến tạo chu kỳ mới theo đúng nghiệp lực. Atome astral permanent cũng có một từ trường bao phủ không có gì thâm nhập được giống như Atome physique permanent.
Chỉ có chất Tịnh Quang mới tồn tại được trong cõi Trung giới, Dĩ Thái Hồng Trần sẽ phân rã ở cõi Trần, không thể hoạt động trong Trung giới. Cõi Trung giới rất rộng lớn nếu so với cõi Trần và phân thành 7 tầng, vùng thanh nhẹ nhất của cõi Trung giới chạm mặt trăng khi mặt trăng ở điểm gần trái đất nhất trong quỹ đạo. Sự đen tối phát ra từ bên trong các chúng sinh Trung giới tầng thứ 7 làm cho nơi đây đầy sự hãi hùng của địa ngục. Chuyển di vào rung động tầng thứ 7 của cõi Trung giới hoàn toàn do hành động, lời nói, tư tưởng độc ác lúc sống ở cõi Trần. Sinh viên huyền môn khi nghiên cứu tầng thứ 7 đều cảm thấy rất khổ sở ghê tởm do vật chất đậm đặc lầy nhầy đen tối. Con người phải ở cảnh thấp nhất của Trung giới cho đến khi nào chất liệu nặng trược phân rã hoàn toàn khỏi Vía sẽ chuyển di tới tầng thanh nhẹ hơn, cứ như vậy cho tới khi lên được tầng thứ nhất của Trung giới.
Còn tầng thấp hơn nữa gọi là A tỳ chưa nói ở đây. Thời gian ở Trung giới hay A tỳ không cố định, có thể kéo dài hàng ngàn năm nhưng cũng có thể vài tuần tùy nghiệp báo.
Khi chất Tịnh Quang thể Vía tan rã, con người lìa cõi Trung giới lên cõi Hạ Thiên, nhà Phật gọi là cõi Trời Sắc Giới. Chỉ có 4 chất Thượng Thanh Khí Thấp bậc 4, 5, 6, 7 cấu tạo nên thể Hạ Trí mới hoạt động được nơi cõi Hạ Thiên. Con người ở đây bao lâu là tùy nghiệp cho tới khi 4 chất Thượng Thanh Khí Thấp bậc 4, 5, 6, 7 cấu tạo nên thể Hạ Trí phân rã hết – đây là CÁI CHẾT THỨ IV. Ở Phách và Vía thì mỗi thể có 1 Nguyên tử trường tồn được bảo vệ bởi từ trường, nhưng ở thể Hạ Trí thì Phân tử trường tồn được bảo vệ [Molécule mentale permanente].
Có một dạng từ trường đặc biệt gọi là Trame de Vie, chúng bao bọc bộ ba trường tồn. Khi khai mở Huệ nhãn [Vision Bouddhique] sẽ quan sát được Trame de Vie, dân gian gọi là Lưới Sinh Tồn hay Lưới Trời giữ thông tin về nghiệp, cho nên mới có thành ngữ về nghiệp báo: Lưới Trời lồng lộng, tuy thưa mà khó lọt.
KHE TRẦN GIAN – TRUNG GIỚI & TRƯỜNG HỢP XẤU NHẤT:
Những người tu luyện có sự thanh lọc các thể, Phách xuất ra trong tích tắc, phân rã chỉ trong vài giây, còn bình thường thì mất nhiều giờ, nhiều ngày, nhiều tuần lễ. Khi chôn người chết mà Phách chưa phân rã hết thì thường xuất hiện ‘hồn ma Dĩ Thái’ ở nghĩa trang như sương mù tím hay trắng xanh. Lợi ích lớn của hoả táng là nhờ hỏa lực nên Phách không vấn vít với sinh lực Prana còn sót trong từng tế bào của thi thể. Tà thuật ưa thích loại xác này và thể Phách ‘bị chộp’ để sử dụng vào các mục đích xấu xa ích kỷ trái nhân quả.
Những kẻ tham luyến tài sản, tình ái, công danh cho tới tận lúc lâm chung thì luôn muốn bám lấy sự sống trên cõi trần, nỗ lực điên cuồng làm Vía không hoàn toàn rời khỏi Phách mà quấn các chất Dĩ Thái Hồng Trần của Phách đang phân rã tạo ra một dạng hồn ma bị kẹt ở khe Trần gian - Trung giới. Loại hồn ma dật dờ này nỗ lực tiếp xúc cõi Trần thông qua Đồng Cốt, người nghiện chất thức thần hoặc loài vật, làm cho chủ thể bị ám nhập ảnh hưởng cảm xúc, thần kinh, thậm chí phát điên. Hồn ma dật dờ chịu đựng đau khổ kịch liệt vì ham muốn không được thoả mãn kéo dài hàng trăm, hàng ngàn năm mà dân gian gọi là ma đói, cho tới ngày thanh toán xong nghiệp quả. Người chết oan cũng dễ bị rơi vào tình trạng này. Những ngôi nhà bị ma ám cũng do các hồn ma dật dờ bị kẹt ở khe Trần gian - Trung giới.
Một số phù thuỷ hay pháp sư ma đầu lợi dụng tình trạng đau khổ mê muội của những hồn ma dật dờ này để luyện âm binh, điều này đặc biệt rộ lên trong những thời đại đen tối. Đây là sự đau khổ lớn lao nhất sau khi lâm chung nhưng dễ dàng tránh được nhờ hoả táng.
Hỏa táng không phải là sáng kiến của Phật giáo, theo hồ sơ khảo cổ học thì hỏa táng có từ 42.000 năm trước đây. Các tu sỹ Phật giáo đắc quả thánh được khai mở Tuệ Nhãn thấy được lợi ích trợ giúp siêu thoát của việc hỏa táng nên áp dụng vào đạo Phật.
CÒN TIẾP.
Nguồn FB Cô Liên Hương
Con người cấu tạo từ nhiều Thể lồng vào nhau nên không có cái chết đồng thời mà từng Thể chết cách riêng. Các chất cấu tạo nên các Thể sẽ phân rã ở cõi giới tương ứng với rung động của nó, hoàn trả về vũ trụ. Mỗi thể hư hoại có Hạt Lưu Tính được từ trường Trame de Vie bảo tồn để chuyển sinh.
Trong cái chết bình thường, vào giai đoạn cận tử, sinh lực Prana từ từ thu rút về tim rồi theo kênh Sushumna thứ cấp [Sushumna secondaire], không phải kênh thẳng mà hai kênh xoáy, nhập vào não thất thứ ba [3 è Venticute - xem ảnh comment], rồi vào điểm giữa của đường khớp đỉnh sọ [vị trí luân xa 7 hay huyệt Bách Hội] rời khỏi thể Xác. Tây y thì coi đây là chết, nhưng sự thực đây mới chỉ là bắt đầu quy trình chết.
Bạn giở lại phần về thể Vía trong bài 1: lúc chúng ta ngủ, thể Vía có thể ra khỏi thể Xác và thể Phách, để lại hai thể đó trên giường [khi đó Phách vẫn cấp dưỡng Prana cho Xác]. Khi chết không giống lúc ngủ, Vía ra khỏi thể Xác nhưng nó ‘quấn theo’ thể Phách, để lại thể Xác không còn được cấp dưỡng sinh khí Prana.
Khi thể Phách vừa ra khỏi thể Xác, có thể thấy nó giống một đám sương mù màu tím hoặc trắng xanh xám giống hình hài người, nhiều người chụp được và lầm tưởng là Linh Hồn. Khi Prana không còn trong thể Xác thì liên kết tế bào bắt đầu mất đi, nhưng sự sống nội môi của bản thân mỗi tế bào riêng rẽ vẫn tiếp tục trong một khoảng thời gian ngắn nữa do tế bào dự trữ được sinh khí Prana ngay trong nhân tế bào.
Khi thể Phách vừa rời bỏ Xác thì nó chưa phân rã hết mà thường trôi nổi bên trên tử thi, dân gian gọi là ‘hồn ma bóng quế’, có thể xuất hiện trước mặt những người có liên hệ mật thiết dưới dạng một hình lờ mờ. Trong giai đoạn này, người chết vẫn còn có ý thức một cách lơ mơ và nói mà người sống không nghe được. Nếu quá trình chết tự nhiên không bị xáo trộn bởi sự phiền não, thác loạn, đau đớn thì trạng thái tâm thức là lâng lâng yên bình. Trong thời gian Vía và Phách rút ra khỏi Xác toàn thể kiếp sống đã qua được duyệt lại như một cuốn phim. Có một số trường hợp, tưởng chết mà không chết, trong hôn mê, toàn thể kiếp sống đã qua cũng được duyệt lại như một cuốn phim mà sau khi hồi tỉnh bệnh nhân có thể kể lại. Lúc này, Phách vẫn còn kết nối lần cuối với Xác bằng một tuyến từ điện giống như sợi tóc mảnh mai sáng lấp lánh. Khi Tuyến Từ Điện này đứt mới thực sự hoàn tất cái chết của thể Xác – đây là CÁI CHẾT THỨ I.
Kế đến, chậm hơn sẽ là sự phân rã từ từ của 4 chất Dĩ Thái Hồng Trần đã tạo nên thể Phách – đây là CÁI CHẾT THỨ II. 4 chất Dĩ Thái Hồng Trần tan rã nhưng Nguyên Tử Trường Tồn của Phách, còn gọi là Hạt Lưu Tính [Atome physique permanent] chứa mật mã nghiệp vẫn được giữ gìn trong trường thông tin vũ trụ để kiến tạo chu kỳ mới theo đúng nghiệp lực, chu kỳ mới có thể tiến hóa hoặc thoái hóa tùy nghiệp. Atome physique permanent có một từ trường bao phủ không có gì thâm nhập được. Sự bảo tồn Atome physique permanent sẽ đề cập ở bài sau.
Kế đến, thể Vía tan rã dần – đây là CÁI CHẾT THỨ III. 7 chất Thanh Khí Trung Giới [nhà Phật gọi là Tịnh Quang] phân rã nhưng Nguyên Tử Trường Tồn của Vía [Atome astral permanent] chứa thông tin nghiệp được giữ gìn trong trường thông tin vũ trụ để kiến tạo chu kỳ mới theo đúng nghiệp lực. Atome astral permanent cũng có một từ trường bao phủ không có gì thâm nhập được giống như Atome physique permanent.
Chỉ có chất Tịnh Quang mới tồn tại được trong cõi Trung giới, Dĩ Thái Hồng Trần sẽ phân rã ở cõi Trần, không thể hoạt động trong Trung giới. Cõi Trung giới rất rộng lớn nếu so với cõi Trần và phân thành 7 tầng, vùng thanh nhẹ nhất của cõi Trung giới chạm mặt trăng khi mặt trăng ở điểm gần trái đất nhất trong quỹ đạo. Sự đen tối phát ra từ bên trong các chúng sinh Trung giới tầng thứ 7 làm cho nơi đây đầy sự hãi hùng của địa ngục. Chuyển di vào rung động tầng thứ 7 của cõi Trung giới hoàn toàn do hành động, lời nói, tư tưởng độc ác lúc sống ở cõi Trần. Sinh viên huyền môn khi nghiên cứu tầng thứ 7 đều cảm thấy rất khổ sở ghê tởm do vật chất đậm đặc lầy nhầy đen tối. Con người phải ở cảnh thấp nhất của Trung giới cho đến khi nào chất liệu nặng trược phân rã hoàn toàn khỏi Vía sẽ chuyển di tới tầng thanh nhẹ hơn, cứ như vậy cho tới khi lên được tầng thứ nhất của Trung giới.
Còn tầng thấp hơn nữa gọi là A tỳ chưa nói ở đây. Thời gian ở Trung giới hay A tỳ không cố định, có thể kéo dài hàng ngàn năm nhưng cũng có thể vài tuần tùy nghiệp báo.
Khi chất Tịnh Quang thể Vía tan rã, con người lìa cõi Trung giới lên cõi Hạ Thiên, nhà Phật gọi là cõi Trời Sắc Giới. Chỉ có 4 chất Thượng Thanh Khí Thấp bậc 4, 5, 6, 7 cấu tạo nên thể Hạ Trí mới hoạt động được nơi cõi Hạ Thiên. Con người ở đây bao lâu là tùy nghiệp cho tới khi 4 chất Thượng Thanh Khí Thấp bậc 4, 5, 6, 7 cấu tạo nên thể Hạ Trí phân rã hết – đây là CÁI CHẾT THỨ IV. Ở Phách và Vía thì mỗi thể có 1 Nguyên tử trường tồn được bảo vệ bởi từ trường, nhưng ở thể Hạ Trí thì Phân tử trường tồn được bảo vệ [Molécule mentale permanente].
Có một dạng từ trường đặc biệt gọi là Trame de Vie, chúng bao bọc bộ ba trường tồn. Khi khai mở Huệ nhãn [Vision Bouddhique] sẽ quan sát được Trame de Vie, dân gian gọi là Lưới Sinh Tồn hay Lưới Trời giữ thông tin về nghiệp, cho nên mới có thành ngữ về nghiệp báo: Lưới Trời lồng lộng, tuy thưa mà khó lọt.
KHE TRẦN GIAN – TRUNG GIỚI & TRƯỜNG HỢP XẤU NHẤT:
Những người tu luyện có sự thanh lọc các thể, Phách xuất ra trong tích tắc, phân rã chỉ trong vài giây, còn bình thường thì mất nhiều giờ, nhiều ngày, nhiều tuần lễ. Khi chôn người chết mà Phách chưa phân rã hết thì thường xuất hiện ‘hồn ma Dĩ Thái’ ở nghĩa trang như sương mù tím hay trắng xanh. Lợi ích lớn của hoả táng là nhờ hỏa lực nên Phách không vấn vít với sinh lực Prana còn sót trong từng tế bào của thi thể. Tà thuật ưa thích loại xác này và thể Phách ‘bị chộp’ để sử dụng vào các mục đích xấu xa ích kỷ trái nhân quả.
Những kẻ tham luyến tài sản, tình ái, công danh cho tới tận lúc lâm chung thì luôn muốn bám lấy sự sống trên cõi trần, nỗ lực điên cuồng làm Vía không hoàn toàn rời khỏi Phách mà quấn các chất Dĩ Thái Hồng Trần của Phách đang phân rã tạo ra một dạng hồn ma bị kẹt ở khe Trần gian - Trung giới. Loại hồn ma dật dờ này nỗ lực tiếp xúc cõi Trần thông qua Đồng Cốt, người nghiện chất thức thần hoặc loài vật, làm cho chủ thể bị ám nhập ảnh hưởng cảm xúc, thần kinh, thậm chí phát điên. Hồn ma dật dờ chịu đựng đau khổ kịch liệt vì ham muốn không được thoả mãn kéo dài hàng trăm, hàng ngàn năm mà dân gian gọi là ma đói, cho tới ngày thanh toán xong nghiệp quả. Người chết oan cũng dễ bị rơi vào tình trạng này. Những ngôi nhà bị ma ám cũng do các hồn ma dật dờ bị kẹt ở khe Trần gian - Trung giới.
Một số phù thuỷ hay pháp sư ma đầu lợi dụng tình trạng đau khổ mê muội của những hồn ma dật dờ này để luyện âm binh, điều này đặc biệt rộ lên trong những thời đại đen tối. Đây là sự đau khổ lớn lao nhất sau khi lâm chung nhưng dễ dàng tránh được nhờ hoả táng.
Hỏa táng không phải là sáng kiến của Phật giáo, theo hồ sơ khảo cổ học thì hỏa táng có từ 42.000 năm trước đây. Các tu sỹ Phật giáo đắc quả thánh được khai mở Tuệ Nhãn thấy được lợi ích trợ giúp siêu thoát của việc hỏa táng nên áp dụng vào đạo Phật.
CÒN TIẾP.
Nguồn FB Cô Liên Hương
Thiền & Thanh Tẩy
10 LOẠI MA.
Trước khi tập thiền, hay dấn thân tham gia vào các môn phái đang nở rộ như nấm sau mưa… các bạn nên đọc cuốn VẠN PHÁP QUY TÂM của ngài Tổ Nguyên Siêu Minh với lời bình của Thượng tọa Thích Nhật Quang. Cuốn sách nói rõ người dụng công tu tập phải biết rõ 10 loại Ma.
Tôi tóm lược một phần rất nhỏ để giới thiệu.
------------------------
Người vào con đường Thiền chẳng phải là việc tầm thường, nên dễ bị các thứ Ma trong, Ma ngoài não loạn chánh định. Nếu tự mình không làm chủ được liền sinh yêu thích các cảnh Ma, kẹt vào rọ Ma. Thế thì, vốn là nhân lành, lại gặt quả chẳng lành. Kẻ sơ cơ đời sau nên thận trọng, nghiêm cẩn đề phòng. Ở đây, nêu ra 10 điều biện Ma, tự phải ngẫm xét. Bởi 10 thứ Ma này hay làm nhiễu loạn kẻ tìm Ðạo, nhất là người tu Thiền chân chính, nên các hành giả phải đề phòng cẩn mật.
Ma oan nghiệt nhiều đời. Loại ma này chính là nghiệp chướng. Bởi từ nhiều kiếp đến nay, chúng ta bị luân hồi, quanh quẩn trong cõi phàm, tạo ác nghiệp, chẳng trung, chẳng hiếu, chẳng nhân, chẳng nghĩa. Sát, dâm, tham, sân, si, ái, vọng... kết chặt oan gia đời nay gặp gỡ, khi ta muốn học Đạo, nó quấy nhiễu khiến chẳng thành tựu.
Ma do thiếu đức khiêm nhường. Loại ma này còn gọi là người làm chướng ngại. Họ não loạn định tâm khiến người tu chẳng được yên ổn, do hành giả tự thiếu oai lực, hoặc thiếu lễ nghĩa, hoặc không cung kính, hoặc tự cao, ngã mạn.
Ma phiền não còn gọi là sự chướng. Người tu thiền mà chẳng trừ được sự chướng thì rối rắm. Thế nào là phiền? Sao gọi là não? Phiền là chạy theo ngoại cảnh. Não là tự sinh trong tâm. Ví như thấy sắc sinh tâm dâm. Người tu Thiền quyết phải dứt hẳn. Nếu chẳng dứt sớm thì định khó thành tựu.
Ma sở tri do ta thiếu đức khiêm nhường và tự cao ngã mạn. Ma này là lý chướng. Người tu Thiền mà lý chướng chẳng trừ, thì chánh định bị nhiễu loạn, không thể nào yên ổn được. Vì sao sở tri có lỗi như thế? Chính vì biết ta đắc ngộ, biết ta thông Tông, biết ta minh giáo, biết ta hội lý, văn ta lỗi lạc, ta thấy sâu rộng, ta giữ giới nghiêm, ta được chánh định, ta có trí tuệ, ta đã chứng không, ta được tự tại, ta không còn ngại... tất cả cái biết đó đều là lý chướng. Lý chướng này chẳng trừ, thì chân tâm chẳng hiện. Người trong Tông môn, phải tự xét.
Ma bệnh khổ do nghiệp nặng, thân có nhiều bệnh tật hoặc do tự mình làm mất sự điều hòa, sinh các thứ bệnh. Bệnh làm cho người học Đạo, tu Thiền chẳng an, chẳng thọ dụng được Pháp an định thù thắng. Nay xin nêu dẫn một vài điều thiết yếu: trước hết phải điều hòa tì vị, chỉ dùng những thức ăn thích hợp, bớt những vị quá đậm đà, chớ ăn đồ sống sít, nắng nóng mà dùng đồ lạnh mát…
Thiên Ma. Loại Ma này chẳng giống các Ma chướng kể trên. Người tu hành chân chính sắp được chứng Ðạo sẽ khiến bọn Thiên Ma và các Quỉ Thần thảy đều kinh hoảng, đại địa chấn động. Các loại ma phần nhiều đắc 5 loại thần thông, bọn chúng kéo đến não loạn Thiền giả ngăn cản không cho đắc được quả vị Thánh. Chúng biến ra các cảnh quái dị và các cảnh dâm dục làm rối loạn tâm định của hành giả. Nếu trong tâm Thiền giả có mảy may niệm thủ, thì bọn kia nắm được Thiền giả sẽ bị hại, tự phát điên cuồng cho rằng mình đắc Đạo, thành Phật, không tu tập được nữa. Khi chết sa vào địa ngục Vô Gián.
Nguồn FB Cô Liên Hương
10 LOẠI MA.
Trước khi tập thiền, hay dấn thân tham gia vào các môn phái đang nở rộ như nấm sau mưa… các bạn nên đọc cuốn VẠN PHÁP QUY TÂM của ngài Tổ Nguyên Siêu Minh với lời bình của Thượng tọa Thích Nhật Quang. Cuốn sách nói rõ người dụng công tu tập phải biết rõ 10 loại Ma.
Tôi tóm lược một phần rất nhỏ để giới thiệu.
------------------------
Người vào con đường Thiền chẳng phải là việc tầm thường, nên dễ bị các thứ Ma trong, Ma ngoài não loạn chánh định. Nếu tự mình không làm chủ được liền sinh yêu thích các cảnh Ma, kẹt vào rọ Ma. Thế thì, vốn là nhân lành, lại gặt quả chẳng lành. Kẻ sơ cơ đời sau nên thận trọng, nghiêm cẩn đề phòng. Ở đây, nêu ra 10 điều biện Ma, tự phải ngẫm xét. Bởi 10 thứ Ma này hay làm nhiễu loạn kẻ tìm Ðạo, nhất là người tu Thiền chân chính, nên các hành giả phải đề phòng cẩn mật.
Ma oan nghiệt nhiều đời. Loại ma này chính là nghiệp chướng. Bởi từ nhiều kiếp đến nay, chúng ta bị luân hồi, quanh quẩn trong cõi phàm, tạo ác nghiệp, chẳng trung, chẳng hiếu, chẳng nhân, chẳng nghĩa. Sát, dâm, tham, sân, si, ái, vọng... kết chặt oan gia đời nay gặp gỡ, khi ta muốn học Đạo, nó quấy nhiễu khiến chẳng thành tựu.
Ma do thiếu đức khiêm nhường. Loại ma này còn gọi là người làm chướng ngại. Họ não loạn định tâm khiến người tu chẳng được yên ổn, do hành giả tự thiếu oai lực, hoặc thiếu lễ nghĩa, hoặc không cung kính, hoặc tự cao, ngã mạn.
Ma phiền não còn gọi là sự chướng. Người tu thiền mà chẳng trừ được sự chướng thì rối rắm. Thế nào là phiền? Sao gọi là não? Phiền là chạy theo ngoại cảnh. Não là tự sinh trong tâm. Ví như thấy sắc sinh tâm dâm. Người tu Thiền quyết phải dứt hẳn. Nếu chẳng dứt sớm thì định khó thành tựu.
Ma sở tri do ta thiếu đức khiêm nhường và tự cao ngã mạn. Ma này là lý chướng. Người tu Thiền mà lý chướng chẳng trừ, thì chánh định bị nhiễu loạn, không thể nào yên ổn được. Vì sao sở tri có lỗi như thế? Chính vì biết ta đắc ngộ, biết ta thông Tông, biết ta minh giáo, biết ta hội lý, văn ta lỗi lạc, ta thấy sâu rộng, ta giữ giới nghiêm, ta được chánh định, ta có trí tuệ, ta đã chứng không, ta được tự tại, ta không còn ngại... tất cả cái biết đó đều là lý chướng. Lý chướng này chẳng trừ, thì chân tâm chẳng hiện. Người trong Tông môn, phải tự xét.
Ma bệnh khổ do nghiệp nặng, thân có nhiều bệnh tật hoặc do tự mình làm mất sự điều hòa, sinh các thứ bệnh. Bệnh làm cho người học Đạo, tu Thiền chẳng an, chẳng thọ dụng được Pháp an định thù thắng. Nay xin nêu dẫn một vài điều thiết yếu: trước hết phải điều hòa tì vị, chỉ dùng những thức ăn thích hợp, bớt những vị quá đậm đà, chớ ăn đồ sống sít, nắng nóng mà dùng đồ lạnh mát…
Thiên Ma. Loại Ma này chẳng giống các Ma chướng kể trên. Người tu hành chân chính sắp được chứng Ðạo sẽ khiến bọn Thiên Ma và các Quỉ Thần thảy đều kinh hoảng, đại địa chấn động. Các loại ma phần nhiều đắc 5 loại thần thông, bọn chúng kéo đến não loạn Thiền giả ngăn cản không cho đắc được quả vị Thánh. Chúng biến ra các cảnh quái dị và các cảnh dâm dục làm rối loạn tâm định của hành giả. Nếu trong tâm Thiền giả có mảy may niệm thủ, thì bọn kia nắm được Thiền giả sẽ bị hại, tự phát điên cuồng cho rằng mình đắc Đạo, thành Phật, không tu tập được nữa. Khi chết sa vào địa ngục Vô Gián.
Nguồn FB Cô Liên Hương
✋热门推荐