Giữ cho trực giác được sống động!
Bước đầu tiên để nhận biết linh hồn là phân biệt các nhóm tần số khác nhau của một thực thể sống mà kinh điển gọi là các Thể. Nếu không phân biệt và nội quán để thấy sự hoạt động nổi trội của từng tần số trong một thời điểm thì sẽ lẫn lộn, không biết làm gì cho đúng. Về nội dung này thì các giáo huấn của Krishnamurti là dễ hiểu nhất, hơn nữa, được ông trình bày bằng văn phong hiện đại.
Lúc viết những dòng này, Krishnamurti 14 tuổi có tên là Alcyone, mồ côi mẹ, được nuôi dưỡng dưới sự giám hộ của bà Annie Besant và linh mục Charles Webster Leadbeater. Krishnamurti nhỏ đã chép lại lời Chân sư khai tâm khi huấn luyện để được điểm đạo, chép lại bằng tiếng Anh mặc dầu mới học Anh ngữ được hơn năm.
Trích: “At The Feet of The Master” xuất bản lần đầu 1910.
Tác giả: Alcyone – tên khi nhỏ của Jiddu Krishnamurti.
_____
PHÂN BIỆT:
Trên thế gian chỉ có hai hạng người: những người hiểu biết và những người không hiểu biết. Duy chỉ có sự hiểu biết mới là hệ trọng mà thôi. Con người theo tôn giáo nào hay thuộc về giống dân nào là không trọng hệ. Điều thật trọng hệ là hiểu Luật Trời. Hiểu biết mới thuận theo lẽ trời, một lòng làm lành, chống chọi với sự ác, lo giúp cho muôn loài cùng tiến hóa chứ không vì tư lợi. Người mà thuận theo lẽ trời là người một nhà, dầu họ giữ đạo Bàlamôn hay đạo Phật, đạo Thiên Chúa hay đạo Hồi, hoặc là người Ấn, người Anh, người Trung Hoa hay người Nga cũng không thành vấn đề.
Ðừng nhầm lẫn các Thể Hư Hoại của con là Con. Cái Xác, cái Vía, cái Trí không phải thật là Con đâu. Nhưng mỗi Thể đó đều giả vờ xưng là Con để đạt được những điều chúng nó muốn. Con phải hiểu chúng và phải tự biết rằng chính Con là chủ của chúng.
THỂ XÁC:
* Khi có một việc nên làm, cái Xác lại viện lẽ nó cần nghỉ ngơi, cần đi chơi, cần ăn uống; người chưa hiểu biết tưởng rằng "Tôi cần mấy việc đó nên tôi phải làm mới được". Còn người hiểu biết nói: "Cái xác của tôi muốn mấy việc đó chứ không phải tôi đâu, nó phải đợi".
* Khi có dịp giúp đỡ người khác, cái Xác nghĩ: "Việc đó sẽ phiền mình lắm! Để cho người khác làm". Nhưng con người hiểu biết trả lời cái Xác: "Ngươi không nên cản Ta làm những việc tốt lành".
* Thể Xác vốn là con ngựa cho con cưỡi. Bởi thế, con phải đối đãi với nó cho tử tế và săn sóc nó kỹ lưỡng. Phải nuôi nó cho đúng phép với những thực phẩm tinh khiết và giữ gìn cho nó luôn sạch sẽ. Không có xác thân tinh khiết thì không thể nào bước vào đường Đạo.
* Phải chính là con, người luôn luôn điều khiển, kiểm soát Thể Xác chứ không phải là Thể Xác điều khiển sai khiến con.
THỂ VÍA:
Cái Vía của con có nhiều sự ước ao – lên đến hàng tá; nó muốn thấy con nổi giận, nó muốn thấy con ganh tỵ, tham lam tiền bạc, toan đoạt của cải thiên hạ và ngã lòng rủn chí... Không phải Vía cố ý hại con, mà tại Vía ưa những sự rung động dữ dội và thay đổi liên tục. Trong mấy việc đó con không muốn việc nào cả, bởi vậy con phải phân biệt ý muốn của con với ý muốn của Vía.
THỂ TRÍ:
Cái Trí của con ưa thích kiêu căng chia rẽ, không thích ngó ngàng đến kẻ khác. Dù khi con hướng sự chú ý của con ra khỏi những việc trần gian được rồi, nó còn ráng gom hết về, nó xúi giục con chú ý tới sự tiến hóa riêng của con chứ không lo nghĩ đến công việc của Chân Sư hay giúp đỡ kẻ khác. Khi con thiền, nó cố sức làm cho con nghĩ đến những chuyện lung tung mà nó muốn thay vì chuyện duy nhất mà con muốn. Con không phải là Cái Trí đó đâu, nó là một Thể của con, để cho con xử dụng, con phải canh chừng liên tục, bằng không con sẽ thất bại.
_____
Jiddu Krishnamurti sinh ngày 12/5/1895, mất 17/2/1986. Ông là một bậc thầy đặc sắc nổi tiếng nhất thời hiện đại về các vấn đề triết học, tôn giáo, đạo đức, tinh thần với các chủ đề không giới hạn: mối quan hệ giữa con người, phương cách để tạo nên sự thay đổi xã hội tích cực trên phạm vi toàn cầu, mục đích của thiền định, tình yêu, việc làm, giáo dục... Ông là tác giả của rất nhiều sách và một khối lượng đồ sộ các bài giảng và thảo luận của ông đã được xuất bản, tái bản nhiều lần bằng mọi ngôn ngữ.
Krishnamurti sinh ra trong một gia đình Bàlamôn trung lưu giữ chay nghiêm khắc tại Ấn Độ. Khi còn bé, sau khi mồ côi mẹ, Krishnamurti gặp Linh mục C.W. Leadbeater một nhà ngoại cảm huyền bí học nổi tiếng trên một bãi biển. Sau đó, Krishnamurti được nuôi dưỡng dưới sự giám hộ của bà Annie Besant và Cha Leadbeater, họ tin rằng Krishnamurti sẽ trở thành vị Thầy Thế Giới trong tương lai.
Krishnamurti được hưởng sự giáo dục ưu tú nhất mà chưa một cư dân địa cầu nào có được, kết hợp rèn luyện tâm linh, nội quán với học thuật Âu châu; kết hợp thể dục thể thao với thiền định và dinh dưỡng chay; kết hợp sự phóng khoáng kiểu Âu Mỹ với sự cô tịch truyền thống… sự giáo dục đã thành công. Khi trưởng thành, chính Krishnamurti đã bác bỏ ý tưởng mình là bậc thầy và đã giải tán hội Ngôi Sao Phương Đông năm 1929 – một tổ chức toàn cầu để hỗ trợ ý tưởng tôn vinh ông.
Krishnamurti khẳng định rằng mình không thuộc bất cứ quốc tịch, tầng lớp, tôn giáo hay trường phái triết học nào, ông đi khắp thế giới như một nhà diễn thuyết độc lập tới tận lúc 91 tuổi. Ở tuổi 90, Krishnamurti đã diễn thuyết tại Liên Hợp Quốc về “Hòa bình và nhận thức”. Ông được trao tặng Huân chương Hòa Bình của Liên Hợp Quốc năm 1984. Buổi diễn thuyết trước công chúng cuối cùng của ông diễn ra tại Madras, Ấn Độ, tháng 01/1986, một tháng trước khi ông qua đời tại nhà riêng ở California, Hoa Kỳ.
Giáo huấn của ông vượt khỏi tất cả các biên giới do con người tạo ra trong niềm tin tôn giáo, cảm tình quốc gia, hệ phái... chúng cho một ý nghĩa và phương hướng mới để tìm hiểu về sự thiêng liêng. Những giáo huấn của ông có tính tổng thể và phi thời gian.
Khi linh mục Leadbeater nhìn thấy Krishnamurti lần đầu, tiều tụy sau khi mồ côi mẹ trên bãi biển Adyar đông người, ông nhìn hào quang và không do dự nói ngay: “Đây là một linh hồn tiến hoá cao, không bị ô nhiễm bởi sự ích kỷ và đă có nhiều kiếp liên hệ với Chân sư.”
Nguồn FB Cô Liên Hương
Bước đầu tiên để nhận biết linh hồn là phân biệt các nhóm tần số khác nhau của một thực thể sống mà kinh điển gọi là các Thể. Nếu không phân biệt và nội quán để thấy sự hoạt động nổi trội của từng tần số trong một thời điểm thì sẽ lẫn lộn, không biết làm gì cho đúng. Về nội dung này thì các giáo huấn của Krishnamurti là dễ hiểu nhất, hơn nữa, được ông trình bày bằng văn phong hiện đại.
Lúc viết những dòng này, Krishnamurti 14 tuổi có tên là Alcyone, mồ côi mẹ, được nuôi dưỡng dưới sự giám hộ của bà Annie Besant và linh mục Charles Webster Leadbeater. Krishnamurti nhỏ đã chép lại lời Chân sư khai tâm khi huấn luyện để được điểm đạo, chép lại bằng tiếng Anh mặc dầu mới học Anh ngữ được hơn năm.
Trích: “At The Feet of The Master” xuất bản lần đầu 1910.
Tác giả: Alcyone – tên khi nhỏ của Jiddu Krishnamurti.
_____
PHÂN BIỆT:
Trên thế gian chỉ có hai hạng người: những người hiểu biết và những người không hiểu biết. Duy chỉ có sự hiểu biết mới là hệ trọng mà thôi. Con người theo tôn giáo nào hay thuộc về giống dân nào là không trọng hệ. Điều thật trọng hệ là hiểu Luật Trời. Hiểu biết mới thuận theo lẽ trời, một lòng làm lành, chống chọi với sự ác, lo giúp cho muôn loài cùng tiến hóa chứ không vì tư lợi. Người mà thuận theo lẽ trời là người một nhà, dầu họ giữ đạo Bàlamôn hay đạo Phật, đạo Thiên Chúa hay đạo Hồi, hoặc là người Ấn, người Anh, người Trung Hoa hay người Nga cũng không thành vấn đề.
Ðừng nhầm lẫn các Thể Hư Hoại của con là Con. Cái Xác, cái Vía, cái Trí không phải thật là Con đâu. Nhưng mỗi Thể đó đều giả vờ xưng là Con để đạt được những điều chúng nó muốn. Con phải hiểu chúng và phải tự biết rằng chính Con là chủ của chúng.
THỂ XÁC:
* Khi có một việc nên làm, cái Xác lại viện lẽ nó cần nghỉ ngơi, cần đi chơi, cần ăn uống; người chưa hiểu biết tưởng rằng "Tôi cần mấy việc đó nên tôi phải làm mới được". Còn người hiểu biết nói: "Cái xác của tôi muốn mấy việc đó chứ không phải tôi đâu, nó phải đợi".
* Khi có dịp giúp đỡ người khác, cái Xác nghĩ: "Việc đó sẽ phiền mình lắm! Để cho người khác làm". Nhưng con người hiểu biết trả lời cái Xác: "Ngươi không nên cản Ta làm những việc tốt lành".
* Thể Xác vốn là con ngựa cho con cưỡi. Bởi thế, con phải đối đãi với nó cho tử tế và săn sóc nó kỹ lưỡng. Phải nuôi nó cho đúng phép với những thực phẩm tinh khiết và giữ gìn cho nó luôn sạch sẽ. Không có xác thân tinh khiết thì không thể nào bước vào đường Đạo.
* Phải chính là con, người luôn luôn điều khiển, kiểm soát Thể Xác chứ không phải là Thể Xác điều khiển sai khiến con.
THỂ VÍA:
Cái Vía của con có nhiều sự ước ao – lên đến hàng tá; nó muốn thấy con nổi giận, nó muốn thấy con ganh tỵ, tham lam tiền bạc, toan đoạt của cải thiên hạ và ngã lòng rủn chí... Không phải Vía cố ý hại con, mà tại Vía ưa những sự rung động dữ dội và thay đổi liên tục. Trong mấy việc đó con không muốn việc nào cả, bởi vậy con phải phân biệt ý muốn của con với ý muốn của Vía.
THỂ TRÍ:
Cái Trí của con ưa thích kiêu căng chia rẽ, không thích ngó ngàng đến kẻ khác. Dù khi con hướng sự chú ý của con ra khỏi những việc trần gian được rồi, nó còn ráng gom hết về, nó xúi giục con chú ý tới sự tiến hóa riêng của con chứ không lo nghĩ đến công việc của Chân Sư hay giúp đỡ kẻ khác. Khi con thiền, nó cố sức làm cho con nghĩ đến những chuyện lung tung mà nó muốn thay vì chuyện duy nhất mà con muốn. Con không phải là Cái Trí đó đâu, nó là một Thể của con, để cho con xử dụng, con phải canh chừng liên tục, bằng không con sẽ thất bại.
_____
Jiddu Krishnamurti sinh ngày 12/5/1895, mất 17/2/1986. Ông là một bậc thầy đặc sắc nổi tiếng nhất thời hiện đại về các vấn đề triết học, tôn giáo, đạo đức, tinh thần với các chủ đề không giới hạn: mối quan hệ giữa con người, phương cách để tạo nên sự thay đổi xã hội tích cực trên phạm vi toàn cầu, mục đích của thiền định, tình yêu, việc làm, giáo dục... Ông là tác giả của rất nhiều sách và một khối lượng đồ sộ các bài giảng và thảo luận của ông đã được xuất bản, tái bản nhiều lần bằng mọi ngôn ngữ.
Krishnamurti sinh ra trong một gia đình Bàlamôn trung lưu giữ chay nghiêm khắc tại Ấn Độ. Khi còn bé, sau khi mồ côi mẹ, Krishnamurti gặp Linh mục C.W. Leadbeater một nhà ngoại cảm huyền bí học nổi tiếng trên một bãi biển. Sau đó, Krishnamurti được nuôi dưỡng dưới sự giám hộ của bà Annie Besant và Cha Leadbeater, họ tin rằng Krishnamurti sẽ trở thành vị Thầy Thế Giới trong tương lai.
Krishnamurti được hưởng sự giáo dục ưu tú nhất mà chưa một cư dân địa cầu nào có được, kết hợp rèn luyện tâm linh, nội quán với học thuật Âu châu; kết hợp thể dục thể thao với thiền định và dinh dưỡng chay; kết hợp sự phóng khoáng kiểu Âu Mỹ với sự cô tịch truyền thống… sự giáo dục đã thành công. Khi trưởng thành, chính Krishnamurti đã bác bỏ ý tưởng mình là bậc thầy và đã giải tán hội Ngôi Sao Phương Đông năm 1929 – một tổ chức toàn cầu để hỗ trợ ý tưởng tôn vinh ông.
Krishnamurti khẳng định rằng mình không thuộc bất cứ quốc tịch, tầng lớp, tôn giáo hay trường phái triết học nào, ông đi khắp thế giới như một nhà diễn thuyết độc lập tới tận lúc 91 tuổi. Ở tuổi 90, Krishnamurti đã diễn thuyết tại Liên Hợp Quốc về “Hòa bình và nhận thức”. Ông được trao tặng Huân chương Hòa Bình của Liên Hợp Quốc năm 1984. Buổi diễn thuyết trước công chúng cuối cùng của ông diễn ra tại Madras, Ấn Độ, tháng 01/1986, một tháng trước khi ông qua đời tại nhà riêng ở California, Hoa Kỳ.
Giáo huấn của ông vượt khỏi tất cả các biên giới do con người tạo ra trong niềm tin tôn giáo, cảm tình quốc gia, hệ phái... chúng cho một ý nghĩa và phương hướng mới để tìm hiểu về sự thiêng liêng. Những giáo huấn của ông có tính tổng thể và phi thời gian.
Khi linh mục Leadbeater nhìn thấy Krishnamurti lần đầu, tiều tụy sau khi mồ côi mẹ trên bãi biển Adyar đông người, ông nhìn hào quang và không do dự nói ngay: “Đây là một linh hồn tiến hoá cao, không bị ô nhiễm bởi sự ích kỷ và đă có nhiều kiếp liên hệ với Chân sư.”
Nguồn FB Cô Liên Hương
TUẦN TỰ & TIỆM TIẾN LÀ BẮT BUỘC.
Các bạn thân mến, trả lời câu hỏi của các bạn về nền tảng của việc trau dồi các giá trị tâm linh nhằm thúc đẩy tiến hóa, tôi đã xác quyết rằng mọi sự đều phải thuận nhân quả - quy luật sắt của tạo hóa. Mọi chủ thuyết, mọi rao giảng hứa hẹn mà ngoài nhân quả đều là giả trá. Hôm nay, tôi giới thiệu với các bạn về quá trình tu dưỡng tuần tự và tiệm tiến để thấy rằng không thể vội vã đi tắt hay đốt cháy giai đoạn. Bài này có rất nhiều phần, gồm các luận giảng của năm tác giả, được xuất bản trong 90 năm [từ 1870 tới 1960]:
* Annie Besant [1847-1933]
* Giám mục Charles Webster Leadbeater [1854-1934]
* Clara Margaret Codd [1876-1971]
* George Sidney Arundale [1878-1945]
* Jiddu Krishnamurti [1895-1986]
Xin tri ân dịch giả Bạch Liên, Cao Ngân Hà, Nguyễn Hữu Kiệt đã tâm huyết chuyển ngữ luận giảng của các bậc thầy. Giáo huấn này có trong mọi tôn giáo, trong Hindu giáo, Phật giáo, Kito giáo, phái Sufi Hồi giáo, tuy hình thức biểu đạt khác nhau nhưng đặc điểm chính yếu đồng nhất.
PHẦN I: KHÔNG CÓ NHỮNG HỨA HẸN MƠ HỒ – “Các tri kiến này không thuộc về bất cứ tông phái riêng biệt nào. Chúng là những nguyên tắc cho tất cả các hành giả dựa trên luật Nhân Quả.”
Khi một cá nhân đã xác quyết và dấn thân vào thực hành cho mục đích tiến hóa thì tới một thời điểm sẽ có sự điểm đạo. Điểm đạo có nghĩa là nhận sự khai mở tâm thức khỏi giới hạn thông thường. Nói cho chính xác thì mục đích của điểm đạo là giúp cho môn đồ gia tăng khả năng phụng sự nhân loại. Để nhận điểm đạo, môn đồ cần:
– Phải trì giữ 4 giới luật để tịnh hóa nghiệp tiêu cực và tích tụ công đức.
– Phải rèn luyện cho đủ 8 phẩm chất bắt buộc.
– Phải trải qua 3 bước chuẩn bị để được Chân Sư [vị Thầy tâm linh] thâu nhận làm “đệ tử tạm”. Bước chuẩn bị đầu tiên thường kéo dài khoảng 7 năm.
– Phải thi hành tất cả 12 yêu cầu phẩm hạnh đối với “đệ tử tạm”.
Sau khi hoàn thành 3 giai đoạn của “đệ tử tạm”, dù đã được nhận làm “đệ tử chính thức”, môn đồ còn phải vượt qua 10 chướng
Sau khi hoàn thành 3 giai đoạn của “đệ tử tạm”, dù đã được nhận làm “đệ tử chính thức”, môn đồ còn phải vượt qua 10 chướng ngại bắt buộc nữa.
Cõi Trần thế [đừng hiểu là địa cầu] có nhiểu địa điểm bí mật để cử hành nghi lễ điểm đạo ở trên các đối phần của cõi Trung giới. Những Thánh địa ấy hẻo lánh và thiêng liêng. Thời gian được chọn thường là vào tuần trăng. Lúc bấy giờ tình huống thông linh thuận lợi nhất, bắt đầu hai ngày trước trăng tròn và chấm dứt hai ngày sau đó [từ 14 tới 17 âm lịch].
Bạn phải tránh mắc bẫy tuyên truyền coi điểm đạo là một “đặc ân” hay “quà tặng may mắn” hay “trang sức thêm vào”. Ở một số nơi, một số vị “thầy” tổ chức các buổi gọi là điểm đạo như một sự ban ơn. Biến tướng, còn có việc điểm đạo có thu phí, điểm đạo tập thể từ xa thanh toán bằng thẻ tín dụng. Buổi điểm đạo được tổ chức linh đình như lễ hội kèm liên hoan ẩm thực… Còn môn đồ chẳng cần giữ giới, chẳng rèn luyện phẩm chất bắt buộc, chẳng qua giai đoạn thử thách “đệ tử tạm”…
PHẦN II: CON ĐƯỜNG & CÔ ĐƠN – “Phải cam chịu một sự chống đối toàn diện và một sự cô đơn bi thảm.”
Có người coi đường đạo là con đường đau khổ vì nó đòi hỏi sự hy sinh thú vui thế gian cao độ. Môn đồ phải dũng mãnh và đầy đủ công đức mới có thể chiến đấu với các cám dỗ và phải quảng đại mới có thể khoan dung với kẻ ác tâm. Phúc báo là trong lòng lúc nào cũng an lạc vì đã làm tròn bổn phận và sống với lý tưởng.
Được điểm đạo là khó khăn, môn đồ phải cam chịu một sự chống đối toàn diện và một sự cô đơn bi thảm. Đệ tử chính thức phải vượt qua 10 trở ngại bắt buộc. Bù lại, tâm thức không còn bị gián đoạn bởi cái chết, có thể kết thân được với một vài bạn đạo trung thành, giữ liên lạc được với Chân Sư, đó là 3 điều an ủi trong hành trình rất khó khăn này.
Về nguyên tắc, để thăng tiến, môn đồ phải:
– Thực hành cống hiến gì đó cho nhân loại
– Phải diệt xong các tật xấu và trở ngại theo quy định
– Phải thấu suốt một tầm mức giáo lý mới
Con đường đạo là giai đoạn chót của tiến hóa mức nhân loại,
Con đường đạo là giai đoạn chót của tiến hóa mức nhân loại, có nghĩa rằng thành tựu con đường đạo là sang giai đoạn phi nhân loại. Sự đắc đạo được hiểu là sự tự chủ hoàn hảo của môn đệ mà thường được gọi là giải thoát.
Đường đạo gồm 2 phân đoạn:
– Giai đoạn chuẩn bị và thử thách
– Giai đoạn điểm đạo hay giai đoạn của sự thánh thiện và đau khổ.
Từ xưa, trừ vài trường hợp rất hiếm, môn đồ chỉ được điểm đạo khi đã đến tuổi trung niên, sau khi đã minh chứng bằng những hoạt động của họ ở thế gian như là thể hiện cam kết hiến dâng cuộc đời cho công việc phụng sự Thiên Cơ. Tuy nhiên, thời gian gần đây, một vài linh hồn đã được điểm đạo dầu họ còn trẻ.
[Còn tiếp]
Bức tranh của Alipiy Svetlichny.
Nguồn FB Cô Liên Hương
Các bạn thân mến, trả lời câu hỏi của các bạn về nền tảng của việc trau dồi các giá trị tâm linh nhằm thúc đẩy tiến hóa, tôi đã xác quyết rằng mọi sự đều phải thuận nhân quả - quy luật sắt của tạo hóa. Mọi chủ thuyết, mọi rao giảng hứa hẹn mà ngoài nhân quả đều là giả trá. Hôm nay, tôi giới thiệu với các bạn về quá trình tu dưỡng tuần tự và tiệm tiến để thấy rằng không thể vội vã đi tắt hay đốt cháy giai đoạn. Bài này có rất nhiều phần, gồm các luận giảng của năm tác giả, được xuất bản trong 90 năm [từ 1870 tới 1960]:
* Annie Besant [1847-1933]
* Giám mục Charles Webster Leadbeater [1854-1934]
* Clara Margaret Codd [1876-1971]
* George Sidney Arundale [1878-1945]
* Jiddu Krishnamurti [1895-1986]
Xin tri ân dịch giả Bạch Liên, Cao Ngân Hà, Nguyễn Hữu Kiệt đã tâm huyết chuyển ngữ luận giảng của các bậc thầy. Giáo huấn này có trong mọi tôn giáo, trong Hindu giáo, Phật giáo, Kito giáo, phái Sufi Hồi giáo, tuy hình thức biểu đạt khác nhau nhưng đặc điểm chính yếu đồng nhất.
PHẦN I: KHÔNG CÓ NHỮNG HỨA HẸN MƠ HỒ – “Các tri kiến này không thuộc về bất cứ tông phái riêng biệt nào. Chúng là những nguyên tắc cho tất cả các hành giả dựa trên luật Nhân Quả.”
Khi một cá nhân đã xác quyết và dấn thân vào thực hành cho mục đích tiến hóa thì tới một thời điểm sẽ có sự điểm đạo. Điểm đạo có nghĩa là nhận sự khai mở tâm thức khỏi giới hạn thông thường. Nói cho chính xác thì mục đích của điểm đạo là giúp cho môn đồ gia tăng khả năng phụng sự nhân loại. Để nhận điểm đạo, môn đồ cần:
– Phải trì giữ 4 giới luật để tịnh hóa nghiệp tiêu cực và tích tụ công đức.
– Phải rèn luyện cho đủ 8 phẩm chất bắt buộc.
– Phải trải qua 3 bước chuẩn bị để được Chân Sư [vị Thầy tâm linh] thâu nhận làm “đệ tử tạm”. Bước chuẩn bị đầu tiên thường kéo dài khoảng 7 năm.
– Phải thi hành tất cả 12 yêu cầu phẩm hạnh đối với “đệ tử tạm”.
Sau khi hoàn thành 3 giai đoạn của “đệ tử tạm”, dù đã được nhận làm “đệ tử chính thức”, môn đồ còn phải vượt qua 10 chướng
Sau khi hoàn thành 3 giai đoạn của “đệ tử tạm”, dù đã được nhận làm “đệ tử chính thức”, môn đồ còn phải vượt qua 10 chướng ngại bắt buộc nữa.
Cõi Trần thế [đừng hiểu là địa cầu] có nhiểu địa điểm bí mật để cử hành nghi lễ điểm đạo ở trên các đối phần của cõi Trung giới. Những Thánh địa ấy hẻo lánh và thiêng liêng. Thời gian được chọn thường là vào tuần trăng. Lúc bấy giờ tình huống thông linh thuận lợi nhất, bắt đầu hai ngày trước trăng tròn và chấm dứt hai ngày sau đó [từ 14 tới 17 âm lịch].
Bạn phải tránh mắc bẫy tuyên truyền coi điểm đạo là một “đặc ân” hay “quà tặng may mắn” hay “trang sức thêm vào”. Ở một số nơi, một số vị “thầy” tổ chức các buổi gọi là điểm đạo như một sự ban ơn. Biến tướng, còn có việc điểm đạo có thu phí, điểm đạo tập thể từ xa thanh toán bằng thẻ tín dụng. Buổi điểm đạo được tổ chức linh đình như lễ hội kèm liên hoan ẩm thực… Còn môn đồ chẳng cần giữ giới, chẳng rèn luyện phẩm chất bắt buộc, chẳng qua giai đoạn thử thách “đệ tử tạm”…
PHẦN II: CON ĐƯỜNG & CÔ ĐƠN – “Phải cam chịu một sự chống đối toàn diện và một sự cô đơn bi thảm.”
Có người coi đường đạo là con đường đau khổ vì nó đòi hỏi sự hy sinh thú vui thế gian cao độ. Môn đồ phải dũng mãnh và đầy đủ công đức mới có thể chiến đấu với các cám dỗ và phải quảng đại mới có thể khoan dung với kẻ ác tâm. Phúc báo là trong lòng lúc nào cũng an lạc vì đã làm tròn bổn phận và sống với lý tưởng.
Được điểm đạo là khó khăn, môn đồ phải cam chịu một sự chống đối toàn diện và một sự cô đơn bi thảm. Đệ tử chính thức phải vượt qua 10 trở ngại bắt buộc. Bù lại, tâm thức không còn bị gián đoạn bởi cái chết, có thể kết thân được với một vài bạn đạo trung thành, giữ liên lạc được với Chân Sư, đó là 3 điều an ủi trong hành trình rất khó khăn này.
Về nguyên tắc, để thăng tiến, môn đồ phải:
– Thực hành cống hiến gì đó cho nhân loại
– Phải diệt xong các tật xấu và trở ngại theo quy định
– Phải thấu suốt một tầm mức giáo lý mới
Con đường đạo là giai đoạn chót của tiến hóa mức nhân loại,
Con đường đạo là giai đoạn chót của tiến hóa mức nhân loại, có nghĩa rằng thành tựu con đường đạo là sang giai đoạn phi nhân loại. Sự đắc đạo được hiểu là sự tự chủ hoàn hảo của môn đệ mà thường được gọi là giải thoát.
Đường đạo gồm 2 phân đoạn:
– Giai đoạn chuẩn bị và thử thách
– Giai đoạn điểm đạo hay giai đoạn của sự thánh thiện và đau khổ.
Từ xưa, trừ vài trường hợp rất hiếm, môn đồ chỉ được điểm đạo khi đã đến tuổi trung niên, sau khi đã minh chứng bằng những hoạt động của họ ở thế gian như là thể hiện cam kết hiến dâng cuộc đời cho công việc phụng sự Thiên Cơ. Tuy nhiên, thời gian gần đây, một vài linh hồn đã được điểm đạo dầu họ còn trẻ.
[Còn tiếp]
Bức tranh của Alipiy Svetlichny.
Nguồn FB Cô Liên Hương
CHÂM NGÔN TRÊN LÁ GỒI.
“Châm ngôn trên lá gồi” là một bản viết tay trên những lá Gồi cổ. Sách gồm 10 lá Gồi và trên mỗi lá có 3 hàng chữ, mỗi hàng là một châm ngôn ngắn bằng chữ Bắc Phạn tối cổ. Sau đó chân sư Vénetian đã dịch từ tiếng Bắc Phạn ra tiếng Ai Cập và Hy Lạp để các môn đệ thuộc phái Alexandria học. Không những đức Vénetian dịch các câu châm ngôn mà ngài còn bổ sung vào đó phần giảng nghĩa. Chân sư Hilarion lại dịch từ tiếng Hy lạp ra tiếng Anh. Cuốn sách bằng tiếng Anh “Light of the Path” mà chúng ta có là do chân sư Hilarion truyền cho bà Mabel Collins chép khi bà ở trong trạng thái thụ động. Minh triết này được xuất bản thành sách lần đầu năm 1885 với lời tựa: “Dành riêng cho những ai chưa hiểu biết về Minh triết Ðông phương để thúc đẩy sự tiến hóa của những kẻ đang đi trên Con Đường”. Cuốn sách đã được tái bản nhiều lần. Ngoài ra, bài giảng rất hay về Nhân Quả do chân sư Vénetian viết cũng được in trong cuốn sách.
Bất kỳ ai muốn tiến bộ tinh thần đều phải nằm lòng các châm ngôn này. Xin trích giới thiệu bốn câu:
* Hãy diệt tận gốc mọi ý thức chia rẽ! Bạn chớ tưởng là bạn có thể tách biệt với những kẻ hung dữ hay hạng điên dại. Họ chính là Bạn.
* Mặc dầu họ ở trình độ [tiến hoá – ND thêm để rõ nghĩa câu] kém hơn bạn hoặc vị Thầy của bạn, nhưng nếu bạn để nảy sinh cái ý nghĩ bạn không liên đới với một điều [tiêu cực – ND thêm để rõ nghĩa câu] nào hoặc một tội lỗi nào, tức là bạn tạo ra một nghiệp quả, nó sẽ buộc bạn vào điều đó hoặc người đó, cho đến ngày tâm hồn bạn nhận thấy rằng không thể riêng rẽ tách biệt.
* Hãy ghi nhớ rằng tội lỗi và nhục nhã của Đời là tội lỗi và nhục nhã của Bạn, bởi vì bạn là một phần tử của thế gian; BIỆT NGHIỆP của bạn dệt chung và không thể tách rời ĐẠI NGHIỆP.
* Trước khi bạn được giác ngộ, bạn phải trải qua mọi chỗ dơ cũng như chỗ sạch. Hãy nhớ rằng cái áo dơ mà bây giờ
Nguồn FB Cô Liên Hương
“Châm ngôn trên lá gồi” là một bản viết tay trên những lá Gồi cổ. Sách gồm 10 lá Gồi và trên mỗi lá có 3 hàng chữ, mỗi hàng là một châm ngôn ngắn bằng chữ Bắc Phạn tối cổ. Sau đó chân sư Vénetian đã dịch từ tiếng Bắc Phạn ra tiếng Ai Cập và Hy Lạp để các môn đệ thuộc phái Alexandria học. Không những đức Vénetian dịch các câu châm ngôn mà ngài còn bổ sung vào đó phần giảng nghĩa. Chân sư Hilarion lại dịch từ tiếng Hy lạp ra tiếng Anh. Cuốn sách bằng tiếng Anh “Light of the Path” mà chúng ta có là do chân sư Hilarion truyền cho bà Mabel Collins chép khi bà ở trong trạng thái thụ động. Minh triết này được xuất bản thành sách lần đầu năm 1885 với lời tựa: “Dành riêng cho những ai chưa hiểu biết về Minh triết Ðông phương để thúc đẩy sự tiến hóa của những kẻ đang đi trên Con Đường”. Cuốn sách đã được tái bản nhiều lần. Ngoài ra, bài giảng rất hay về Nhân Quả do chân sư Vénetian viết cũng được in trong cuốn sách.
Bất kỳ ai muốn tiến bộ tinh thần đều phải nằm lòng các châm ngôn này. Xin trích giới thiệu bốn câu:
* Hãy diệt tận gốc mọi ý thức chia rẽ! Bạn chớ tưởng là bạn có thể tách biệt với những kẻ hung dữ hay hạng điên dại. Họ chính là Bạn.
* Mặc dầu họ ở trình độ [tiến hoá – ND thêm để rõ nghĩa câu] kém hơn bạn hoặc vị Thầy của bạn, nhưng nếu bạn để nảy sinh cái ý nghĩ bạn không liên đới với một điều [tiêu cực – ND thêm để rõ nghĩa câu] nào hoặc một tội lỗi nào, tức là bạn tạo ra một nghiệp quả, nó sẽ buộc bạn vào điều đó hoặc người đó, cho đến ngày tâm hồn bạn nhận thấy rằng không thể riêng rẽ tách biệt.
* Hãy ghi nhớ rằng tội lỗi và nhục nhã của Đời là tội lỗi và nhục nhã của Bạn, bởi vì bạn là một phần tử của thế gian; BIỆT NGHIỆP của bạn dệt chung và không thể tách rời ĐẠI NGHIỆP.
* Trước khi bạn được giác ngộ, bạn phải trải qua mọi chỗ dơ cũng như chỗ sạch. Hãy nhớ rằng cái áo dơ mà bây giờ
Nguồn FB Cô Liên Hương
✋热门推荐