Cùi trái trứng gà là một siêu dinh dưỡng, thời cổ đại gọi là “vàng của người Inca” biểu tượng cho khả năng sinh sản. Lê ki ma chứa beta carotene, sắt, kẽm, vitamin B3, canxi, protein và vị ngọt tự nhiên. Nghiên cứu cho thấy rằng cùi lê ki ma hỗ trợ sức khỏe của da, đường huyết, tim mạch, bổ sung dinh dưỡng cho bện nhân tiểu đường loại II, dầu của nó làm lành vết thương bằng cách hoạt hóa các yếu tố bên trong da. Tiếc rằng, ở Việt nam, trái lê ki ma bị bỏ phí.
Gia đình cô Liên Hương có kinh nghiệm ăn lê ki ma, bà ngoại cô chế nhiều món: có khi ngào đường thành mứt, có khi trộn sa lát, có khi đánh sinh tố với xoài, cốt dừa, dầu vừng, có khi làm kem, có khi làm bánh áp chảo, có khi nấu xúp kem, có khi đánh tơi rang cơm, nghiền vào cháo cho trẻ ăn dặm… đều ngon và béo ngậy. Hôm nay được mẹ Lê Xuân Cao biếu, tôi đang làm mẫu mấy món ăn dặm để cổ vũ các bạn bổ sung dinh dưỡng bằng lê ki ma, bán sinh tố lê ki ma.
Việt Nam có rất nhiều trái cây bổ dưỡng đủ mùa, nên tận hưởng chứ đừng uống nước pha hóa chất hay các thứ công nghệ đóng hộp. Trái lê ki ma phải để chín bung mới hết nhựa, sau đó lột vỏ, đóng băng hoặc sấy khô dùng dần.
Các bạn xin giống lê ki ma của FB Lê Xuân Cao mà trồng, trái nhỏ nhưng rất ngọt.
Nguồn FB Cô Liên Hương
Gia đình cô Liên Hương có kinh nghiệm ăn lê ki ma, bà ngoại cô chế nhiều món: có khi ngào đường thành mứt, có khi trộn sa lát, có khi đánh sinh tố với xoài, cốt dừa, dầu vừng, có khi làm kem, có khi làm bánh áp chảo, có khi nấu xúp kem, có khi đánh tơi rang cơm, nghiền vào cháo cho trẻ ăn dặm… đều ngon và béo ngậy. Hôm nay được mẹ Lê Xuân Cao biếu, tôi đang làm mẫu mấy món ăn dặm để cổ vũ các bạn bổ sung dinh dưỡng bằng lê ki ma, bán sinh tố lê ki ma.
Việt Nam có rất nhiều trái cây bổ dưỡng đủ mùa, nên tận hưởng chứ đừng uống nước pha hóa chất hay các thứ công nghệ đóng hộp. Trái lê ki ma phải để chín bung mới hết nhựa, sau đó lột vỏ, đóng băng hoặc sấy khô dùng dần.
Các bạn xin giống lê ki ma của FB Lê Xuân Cao mà trồng, trái nhỏ nhưng rất ngọt.
Nguồn FB Cô Liên Hương
Nên bảo đảm khẩu phần có thức ăn tươi sống giàu enzime và lợi khuẩn.
Probiotics – “Glutinous rice- white apples fruit” fermented by me [for salad, drinks, cooking]
Sa-lát dùng mẻ, không dùng dấm. Để bảo đảm sức khỏe tâm thần và thể chất thì bắt buộc phải có đường ruột khỏe mạnh. Từ cổ xưa loài người đã kinh nghiệm vô vàn lợi ích của thức ăn lên men, dân tộc nào cũng có đồ lên men đặc trưng, người Việt có mẻ. Ở đây, tôi áp dụng kết hợp việc nuôi mẻ từ lúa gạo và táo để cho ra sản phẩm mẻ tuyệt hảo, và tôi có nhân giống để tặng. Thức ăn lợi khuẩn từ gạo và táo lành hơn sữa chua nhiều, dùng được cho trẻ em, thai phụ và đặc biệt cần thiết cho những ai phải điều trị kháng sinh hay hóa chất, hủy hoại lợi khuẩn đường ruột.
Cách ủ mẻ tôi sẽ viết chi tiết, kèm ảnh chụp. Ở đây tôi chỉ ghi nguyên liệu sa-lát:
- Nước mẻ đã lọc sau khi trộn với nước khoáng tự nhiên.
- Cà rốt hấp 5’
- Bông cải trắng hấp 2’
- Cà chua sống
- Hành tây bi bào mỏng ngâm nước mẻ 15’ cho bớt hăng
- Cỏ thơm tarragon
- Hạt bí ngô sống
- Vừng trắng rang xịt nước vừa chín
- Tiêu sọ đỏ, rau gia vị khô, hoa muối [xay chút xíu]
- Cam canh
Nguồn FB Cô Liên Hương
Probiotics – “Glutinous rice- white apples fruit” fermented by me [for salad, drinks, cooking]
Sa-lát dùng mẻ, không dùng dấm. Để bảo đảm sức khỏe tâm thần và thể chất thì bắt buộc phải có đường ruột khỏe mạnh. Từ cổ xưa loài người đã kinh nghiệm vô vàn lợi ích của thức ăn lên men, dân tộc nào cũng có đồ lên men đặc trưng, người Việt có mẻ. Ở đây, tôi áp dụng kết hợp việc nuôi mẻ từ lúa gạo và táo để cho ra sản phẩm mẻ tuyệt hảo, và tôi có nhân giống để tặng. Thức ăn lợi khuẩn từ gạo và táo lành hơn sữa chua nhiều, dùng được cho trẻ em, thai phụ và đặc biệt cần thiết cho những ai phải điều trị kháng sinh hay hóa chất, hủy hoại lợi khuẩn đường ruột.
Cách ủ mẻ tôi sẽ viết chi tiết, kèm ảnh chụp. Ở đây tôi chỉ ghi nguyên liệu sa-lát:
- Nước mẻ đã lọc sau khi trộn với nước khoáng tự nhiên.
- Cà rốt hấp 5’
- Bông cải trắng hấp 2’
- Cà chua sống
- Hành tây bi bào mỏng ngâm nước mẻ 15’ cho bớt hăng
- Cỏ thơm tarragon
- Hạt bí ngô sống
- Vừng trắng rang xịt nước vừa chín
- Tiêu sọ đỏ, rau gia vị khô, hoa muối [xay chút xíu]
- Cam canh
Nguồn FB Cô Liên Hương
THIỀN
Thiền và yoga giống nhau thế nào mà các tư thế chân lại có từ riêng trong khoa yoga bằng tiếng Hindu?
TRẢ LỜI:
* Các thuật ngữ yoga không phải tiếng Hindu mà từ Vedic Sanskrit [bắc Phạn tối cổ] ngôn ngữ được xem là một trong những thành viên cổ nhất của hệ ngôn ngữ Ấn-Âu. Các thông tin về yoga mà phổ biến ở Việt Nam hiện nay là xuất phát từ Kinh Upanishads [Áo Nghĩa Thư] viết bằng chữ Sanskrit, sau này được dịch ra tiếng Ba Tư rồi sau nữa được dịch ra tiếng Latin, rồi sang tiếng Anh và sang tiếng Việt.
* Thực ra, theo các tài liệu hiện có, Yoga không xuất phát từ văn hóa Ấn độ mà từ xa xưa hơn nữa trong nền văn minh tiền Ai cập [trước văn minh Ấn khoảng 2.000 năm], các tư thế Yoga được minh họa rõ ràng trên các bức tường của đền Kemetic, đền thờ thần Isis. Khó mà biết chính xác Kemetic Yoga – vừa là triết lý vừa là khoa học thực nghiệm – đã thúc đẩy nền văn minh cổ xưa hay nhờ các thành tựu tâm linh và quyền năng từ Yoga mà sinh ra nền văn minh cổ này. Kemetic Yoga là khoa học dựa trên thực tiễn các chuyển động vật lý của cơ thể kết hợp với kiểm soát hơi thở và định tâm để phát triển trí tuệ, liên kết với các nguồn năng lượng cao trong vũ trụ để đạt tới trạng thái tối thượng của tâm thức, khai phá quyền năng. Pháp môn này đã thất truyền, cái mà ngày nay chúng ta thường thấy là công nghiệp Yoga thương mại với những tư thế thể dục uốn dẻo nặng tính trình diễn, có thể gây ra tổn thương và vô dụng với trạng thái tối thượng của tâm thức. Bạn có thể tham gia với nhóm yoga cổ đại của người Phi “Kemetic yoga” --://www.facebook.com/Kemetic-Yoga-277523855646263/
* Rất nhiều người nhầm tập thiền là khởi từ đức Phật. Phương pháp thiền không phải được sáng tạo ra bởi đức Phật, thiền có trước khi đức Thích-ca ra đời nhiều ngàn năm, thiền chỉ là một phần nhỏ trong Yoga mà kinh điển gọi là Dhyāna ta dịch là thiền na. Trong Kinh Upanishads, phần Maitrī-Upaniṣad liệt kê Yoga có sáu nhánh, tiếng Việt dịch là Lục chi du già:
1. Prāṇāyāma – là điều chế hơi thở ra vào.
2. Pratyāhāra – là thâu tóm các giác quan không để ý vào những đối tượng bên ngoài.
3. Dhyāna – là là thiền.
4. Dhāraṇa – là trì đặt tâm vào một nơi, không cho suy nghĩ tán loạn.
5. Tarka – là tư duy tìm hiểu.
6. Samādhi – là tâm đạt được an định.
Tám cấp tu tập yoga rất giống giới của đạo Phật. Hai cấp đầu tương quan đến việc tu trì giới luật, ba cấp kế tương quan đến việc tu tập thân thể và ba cấp cuối trau dồi tâm thức để phát huệ.
1. Yama – giới là tự kiểm soát trong mọi hành động bao gồm:
* Ahiṃsā không sát sinh
* Satya chân thật
* Asteya không trộm cắp
* Brahmacaryā hạnh tuyệt dục
* Aparigraha không sở hữu
2. Niyama – chế ngự nội tâm bao gồm:
* Sauca thanh tịnh thân, khẩu, ý
* Saṃtoṣa tâm thức hoan hỉ
* Tapas khổ hạnh
* Svādhyāya tu học kinh điển dẫn đến giải thoát
* Iśvarapraṇidhāna quy y đấng Tự Tại, hiến dâng tất cả cho đấng Tối Cao [gần giống quy y Tam bảo Phật - Pháp – Tăng mấy ngàn năm sau]
3. Asana – tư thế ngồi vững chắc và dễ chịu
4. Prāṇāyāma – điều chế hơi thở giúp cho tâm thức được tuần phục
5. Pratyāhāra – chế ngự cảm giác, rút giác quan ra khỏi những đối tượng chỉ có thể được thực hiện khi tâm thức đã được điều phục
6. Dhāraṇa – chấp trì tập trung tâm thức vào một chỗ nhất định [những điểm tập trung được nhắc đến là luân xa, khu vực tim, chóp mũi, đầu lưỡi hay một bức tượng…].
7. Dhyāna – tĩnh lự hay thiền, tập trung được vào đối tượng một cách tự nhiên không bị xao động
8. Samādhi – đại định là đỉnh điểm của quá trình thiền.
Muốn chứng tam muội tức đại định Samādhi phải thông qua thiền Dhyāna.
Ba phạm trù để thành tựu Yoga ghi trong Bhagavadgītā: 1. Karmayoga – tu tập yoga qua những hoạt động hằng ngày để tránh tạo ác nghiệp từ thân, khẩu, ý. 2. Bhaktiyoga – tu tập yoga qua đức tin kiên cố 3. Jñānayoga – trí huệ là phương tiện đưa tới thành tựu. Những điểm này giống Giới – Định – Tuệ của Phật giáo mấy ngàn năm sau. Đức Phật nhờ đại định dưới cội Bồ đề mà chứng quả. Khi các tu sỹ Ấn hoằng pháp sang Tây Tạng và Trung hoa đã trao truyền việc tập thiền, các nền văn hóa kia tiếp nhận, cải biên thành các trường phái vô cùng phong phú.
Minh họa: Tư thế yoga cái cày, điêu khắc trên tường trong một đền thờ cổ ở Ai cập.
Nguồn FB Cô Liên Hương
Thiền và yoga giống nhau thế nào mà các tư thế chân lại có từ riêng trong khoa yoga bằng tiếng Hindu?
TRẢ LỜI:
* Các thuật ngữ yoga không phải tiếng Hindu mà từ Vedic Sanskrit [bắc Phạn tối cổ] ngôn ngữ được xem là một trong những thành viên cổ nhất của hệ ngôn ngữ Ấn-Âu. Các thông tin về yoga mà phổ biến ở Việt Nam hiện nay là xuất phát từ Kinh Upanishads [Áo Nghĩa Thư] viết bằng chữ Sanskrit, sau này được dịch ra tiếng Ba Tư rồi sau nữa được dịch ra tiếng Latin, rồi sang tiếng Anh và sang tiếng Việt.
* Thực ra, theo các tài liệu hiện có, Yoga không xuất phát từ văn hóa Ấn độ mà từ xa xưa hơn nữa trong nền văn minh tiền Ai cập [trước văn minh Ấn khoảng 2.000 năm], các tư thế Yoga được minh họa rõ ràng trên các bức tường của đền Kemetic, đền thờ thần Isis. Khó mà biết chính xác Kemetic Yoga – vừa là triết lý vừa là khoa học thực nghiệm – đã thúc đẩy nền văn minh cổ xưa hay nhờ các thành tựu tâm linh và quyền năng từ Yoga mà sinh ra nền văn minh cổ này. Kemetic Yoga là khoa học dựa trên thực tiễn các chuyển động vật lý của cơ thể kết hợp với kiểm soát hơi thở và định tâm để phát triển trí tuệ, liên kết với các nguồn năng lượng cao trong vũ trụ để đạt tới trạng thái tối thượng của tâm thức, khai phá quyền năng. Pháp môn này đã thất truyền, cái mà ngày nay chúng ta thường thấy là công nghiệp Yoga thương mại với những tư thế thể dục uốn dẻo nặng tính trình diễn, có thể gây ra tổn thương và vô dụng với trạng thái tối thượng của tâm thức. Bạn có thể tham gia với nhóm yoga cổ đại của người Phi “Kemetic yoga” --://www.facebook.com/Kemetic-Yoga-277523855646263/
* Rất nhiều người nhầm tập thiền là khởi từ đức Phật. Phương pháp thiền không phải được sáng tạo ra bởi đức Phật, thiền có trước khi đức Thích-ca ra đời nhiều ngàn năm, thiền chỉ là một phần nhỏ trong Yoga mà kinh điển gọi là Dhyāna ta dịch là thiền na. Trong Kinh Upanishads, phần Maitrī-Upaniṣad liệt kê Yoga có sáu nhánh, tiếng Việt dịch là Lục chi du già:
1. Prāṇāyāma – là điều chế hơi thở ra vào.
2. Pratyāhāra – là thâu tóm các giác quan không để ý vào những đối tượng bên ngoài.
3. Dhyāna – là là thiền.
4. Dhāraṇa – là trì đặt tâm vào một nơi, không cho suy nghĩ tán loạn.
5. Tarka – là tư duy tìm hiểu.
6. Samādhi – là tâm đạt được an định.
Tám cấp tu tập yoga rất giống giới của đạo Phật. Hai cấp đầu tương quan đến việc tu trì giới luật, ba cấp kế tương quan đến việc tu tập thân thể và ba cấp cuối trau dồi tâm thức để phát huệ.
1. Yama – giới là tự kiểm soát trong mọi hành động bao gồm:
* Ahiṃsā không sát sinh
* Satya chân thật
* Asteya không trộm cắp
* Brahmacaryā hạnh tuyệt dục
* Aparigraha không sở hữu
2. Niyama – chế ngự nội tâm bao gồm:
* Sauca thanh tịnh thân, khẩu, ý
* Saṃtoṣa tâm thức hoan hỉ
* Tapas khổ hạnh
* Svādhyāya tu học kinh điển dẫn đến giải thoát
* Iśvarapraṇidhāna quy y đấng Tự Tại, hiến dâng tất cả cho đấng Tối Cao [gần giống quy y Tam bảo Phật - Pháp – Tăng mấy ngàn năm sau]
3. Asana – tư thế ngồi vững chắc và dễ chịu
4. Prāṇāyāma – điều chế hơi thở giúp cho tâm thức được tuần phục
5. Pratyāhāra – chế ngự cảm giác, rút giác quan ra khỏi những đối tượng chỉ có thể được thực hiện khi tâm thức đã được điều phục
6. Dhāraṇa – chấp trì tập trung tâm thức vào một chỗ nhất định [những điểm tập trung được nhắc đến là luân xa, khu vực tim, chóp mũi, đầu lưỡi hay một bức tượng…].
7. Dhyāna – tĩnh lự hay thiền, tập trung được vào đối tượng một cách tự nhiên không bị xao động
8. Samādhi – đại định là đỉnh điểm của quá trình thiền.
Muốn chứng tam muội tức đại định Samādhi phải thông qua thiền Dhyāna.
Ba phạm trù để thành tựu Yoga ghi trong Bhagavadgītā: 1. Karmayoga – tu tập yoga qua những hoạt động hằng ngày để tránh tạo ác nghiệp từ thân, khẩu, ý. 2. Bhaktiyoga – tu tập yoga qua đức tin kiên cố 3. Jñānayoga – trí huệ là phương tiện đưa tới thành tựu. Những điểm này giống Giới – Định – Tuệ của Phật giáo mấy ngàn năm sau. Đức Phật nhờ đại định dưới cội Bồ đề mà chứng quả. Khi các tu sỹ Ấn hoằng pháp sang Tây Tạng và Trung hoa đã trao truyền việc tập thiền, các nền văn hóa kia tiếp nhận, cải biên thành các trường phái vô cùng phong phú.
Minh họa: Tư thế yoga cái cày, điêu khắc trên tường trong một đền thờ cổ ở Ai cập.
Nguồn FB Cô Liên Hương
✋热门推荐